Là một phương pháp “nhằm thay thế những cách đấu tranh bạo động khác”, đấu tranh vì lương tâm ra đời tại Nam Phi, rồi được tiếp nối tại Ấn Độ. Triết lý đấu tranh này tuy không phát sinh từ lý thuyết hay được trình bày trên giấy trắng mực đen, trong một văn bản có logic hay hệ thống, nhưng nền tảng tư tưởng và hành động của nó – được rút tỉa và bổ sung thông qua các cuộc đấu tranh xã hội và chính trị trên thực tế – lại hiện ra rất rõ trước mắt những ai muốn tìm hiểu, hiểu để thách thức, để áp dụng, hay cả để chống đối.
Pro&Contra | 25/02/2014
Joan V. Bondurant
Phan Trinh dịch
Giới thiệu của người dịch
Tuy âm thầm nhưng có thật, tuy quy mô nhỏ nhưng tác dụng sâu, xã hội dân sự tại Việt Nam trong thời gian qua có thể nói đang thực sự chuyển mình. Chuyển từ “0” thành “1”. Chuyển từ không thành có. Chuyển từ nhận thức, đến hoạt động hỗ trợ người trong cuộc, đến vận động dư luận rộng rãi bên ngoài. Một phương pháp hành động vì nhân quyền và sự thật dường như đang định hình. Và, lạ thay, nó rất gần với những gì Gandhi đã nghĩ và đã làm cách đây trên dưới 100 năm.
Thực vậy, gần đây đã có một số cách nhìn khác về “bạo lực” và “bạo động”:
– Khi trang mạng Bauxite Việt Nam mong muốn tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ ngưng tuyệt thực lần hai (sau lần thứ nhất gây tiếng vang), lý do chính được đưa ra là: “Lòng tin vào chính nghĩa không cho phép con người dùng bạo lực: bạo lực từ phía nhà tù…, cũng như sự tuyệt thực – nên được coi như một dạng bạo lực cuối cùng của kẻ nạn nhân của bạo lực.” (Bauxite VN, 17/10/2013)
– Trong bài “Trị căn hơn trị chứng”, nhà nghiên cứu triết học Bùi Văn Nam Sơn tin rằng: “Bất công xã hội, tự nó, là bạo động. Đặc quyền, đặc lợi là bạo động. Độc thoại trên diễn đàn thông tin đại chúng là bạo động. Ngôn ngữ mạ lỵ, thiếu tương kính là bạo động …” (Tuổi trẻ, 31/12/2013)
Gần đây, cũng bắt đầu có những hoạt động hỗ trợ thiết thực:
– Ngày 25/11/2013, Hội Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam được thành lập, ghi rõ chủ trương: “… để đại diện một cách độc lập, công bằng và vô vị lợi cho toàn thể những người phụ nữ đã, đang và sẽ bị tổn thương về Nhân quyền.”
– Ngày 6/1/2014 cuộc vận động quyên góp “Nhịp cầu Hoàng Sa” đã được các nhà báo Huy Đức, Kim Hạnh, Nguyễn Thế Thanh và bằng hữu phát động để “… làm điều gì đó thiết thực hơn cho thân nhân những người lính đã hy sinh ở Hoàng Sa và cho những người lính từ Hoàng Sa trở về sống âm thầm suốt 40 năm qua.” Sau đó, Nhịp cầu còn mở rộng để hỗ trợ gia đình những người lính chiến đấu và hy sinh tại Gạc Ma.
– Ngày 14/1/2014, chương trình “Quà Tết cho Tù nhân Lương tâm” do trang mạng Diễn đàn Xã hội Dân sự và nhóm Bầu bí Tương thân đã khởi động ở Nghệ An, để sau đó thực hiện ở Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Đà Nẵng… Dù bị cản trở, các cuộc thăm viếng vẫn diễn ra. Và lời kêu gọi khó quên này đã được tiến sĩ Nguyễn Quang A gióng lên: “1 giờ mà quý vị đến thăm họ để biết hoàn cảnh thật của họ tại gia đình họ, thì 1 giờ đó có thể giúp quý vị hiểu nhiều hơn 1 năm chỉ đọc và nghe. Hãy thường xuyên đến với họ, bày tỏ sự đoàn kết với họ và đấy là một trong những cách phá vỡ sự cô lập chết người mà một số kẻ lạm dụng quyền lực đã và đang gây ra…” (Bauxite VN, 22/1/2014)
– Ngày 18/2/2014, Hội Cựu Tù nhân Lương tâm ra đời. Ngoài mục tiêu “Đấu tranh cho một nền pháp chế biết đề cao nhân phẩm, tôn trọng nhân quyền, thăng tiến tự do, xây dựng dân chủ…”, Hội còn ghi trong Điều lệ chủ trương “Duy trì các hoạt động hỗ trợ, giúp đỡ cho các cựu tù nhân lương tâm cũng như các thân nhân gia đình của những tù nhân lương tâm còn bị giam cầm.”
Và gần đây, cũng nở rộ hoạt động quảng bá cho nhân quyền, bao gồm:
– Những cuộc dã ngoại nhân quyền, những buổi phổ biến bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân Quyền, những cuộc tiếp xúc với Đại sứ Quán các nước về nhân quyền, những chuyến đi gặp gỡ và điều trần tại các tổ chức và diễn đàn nhân quyền quốc tế, và cột mốc quan trọng là cuộc điều trần UPR ngày 5/2/2014 tại Genève của Mạng lưới Blogger Việt Nam cùng các tổ chức xã hội dân sự từ Việt Nam và hải ngoại khác.
***
Không hẹn mà gặp, những cách nhìn về bạo động như kể trên rất gần với cách nhìn của Mohandas Gandhi (được tôn kính gọi là Mahatma Gandhi); những hoạt động hỗ trợ vừa kể cũng là những hoạt động hỗ trợ mà Gandhi chủ trương; việc quảng bá cho dư luận biết về cuộc đấu tranh cũng là điều Gandhi rất chú trọng.
Tất cả đều là những thành phần không thể thiếu của phương pháp đấu tranh Satyagraha, được xem như di sản lớn nhất Gandhi để lại cho Ấn Độ và nhân loại.
Satyagraha thường được dịch là “đấu tranh bất bạo động”, nhưng ở đây, xin được dịch là đấu tranh vì lương tâm (Satyagraha nghĩa gốc là “giữ lấy sự thật”, cũng có thể hiểu là bảo vệ, là hành động, là dấn thân vì sự ngay thẳng, cái đúng, cái thật, lẽ phải, điều chính trực nằm ngay trong lương tâm mỗi người, được từng người cảm nhận).
***
Nhưng, đấu tranh vì lương tâm, ngoài yếu tố bất bạo động, nhận thức mới, các hoạt động hỗ trợ và quảng bá, vẫn còn có những nguyên lý, bước tiến hành và kỹ thuật khác. Cơ bản hơn, phương pháp này còn được xây dựng trên một nền tảng tư duy mà nhà nghiên cứu hàng đầu về Gandhi, Joan V. Bondurant, tác giả cuốnConquest of Violence được trích dịch ở đây, gọi là “Biện chứng Gandhi” (Bondurant, tr. 237).
Khác hẳn thứ biện chứng chủ trương A phải diệt B, nông dân diệt địa chủ, công nhân diệt tư bản để tiến lên chủ nghĩa xã hội…, biện chứng Gandhi tin rằng: A không diệt B để tiến bộ.
Nhưng, nếu không diệt cũ, diệt sai, diệt cộng, diệt độc tài thì có thể dựng mới, làm đúng, và xây nền dân chủ được không? Đây là câu hỏi hóc búa. Vâng, không diệt cũ thì dựng mới cách nào?
Trả lời: Với Gandhi, người đấu tranh vì lương tâm “không tìm chiến thắng một chiều, mà tìm cách mở đường cho một dàn xếp mới tốt nhất có thể. Người đấu tranh muốn thắng, nhưng không phải là thắng đối thủ, mà là thắng tình trạng xung đột bằng một hợp đề tốt nhất có thể.” (Bondurant, tr. 196)
Với Gandhi, phương tiện ra sao sẽ dẫn đến mục đích như vậy, phương tiện cũng là mục đích, gieo gì thì gặt nấy, nhân nào thì quả nấy. Điều này có thể diễn giải thành: Nếu dùng phương tiện là bạo lực nhằm tiêu diệt đối thủ thì sẽ không thể đạt mục đích dân chủ đích thực, vì dân chủ vốn là cuộc sống chung ôn hòa của những kẻ khác nhau, thậm chí bất đồng với nhau.
Gandhi cũng khuyến cáo: “Nếu không truyền lại cho thế hệ kế thừa một phương thuốc hữu hiệu để chống lại sự lạm quyền, thì ta sẽ thả lỏng cho ma lực của thù hận và ý chí trả thù mặc sức lộng hành”. Ông tin rằng: “Đấu tranh vì lương tâm là cách duy nhất … để ngăn chặn chủ nghĩa khủng bố.” (Bondurant, tr. 235)
Trong 50 năm qua, đáp án cho câu hỏi hóc búa nêu trên cũng đã lần lượt được Martin Luther King (Mỹ), Václav Havel (Tiệp Khắc), Nelson Mandela (Nam Phi) và Aung San Suu Ky (Miến Điện) tìm hiểu, thử nghiệm và áp dụng thành công. Họ đã vượt qua bạo động. Họ không cần diệt đối thủ để tiến bộ. Và hầu hết đều đã lấy cảm hứng từ phương pháp đấu tranh vì lương tâm của Gandhi.
Đấu pháp có lẽ vốn nhiều màu, từ đen ngòm, đến đỏ máu, đỏ cờ, đến xanh lục, nhung, cam, hoặc trắng như tã hài nhi, như khăn tang quả phụ, như nón lá dân oan, hoặc nâu sồng như áo nhà sư, hoặc không màu, chỉ có mùi hương hoa nhài. Lấy máu đòi máu thì máu cứ chảy, cách mạng thất bại, mạng người thì mất, như người Việt đã thấy trên quê hương Việt Nam khổ đau này.
***
Đấu tranh vì lương tâm là gì? Làm thế nào để bất tuân cá nhân – trước một luật lệ xúc phạm lương tâm và nhân phẩm – trở thành bất tuân đại chúng? Làm thế nào để bất bạo động tạo được áp lực với nhà cầm quyền? Bất bạo động có phải là chọn lựa giai đoạn khi địch mạnh ta yếu, hay là chọn lựa chiến lược duy nhất? Bạo quyền có chuyển hóa, ngồi xuống “nói chuyện phải trái” với quần chúng tay không tấc sắt được không? Vì sao bất bạo động được dùng nhiều nhưng ít được hiểu đúng hay làm đúng? Làm thế nào để hóa giải và tìm được điểm chung với đối phương?… Những câu hỏi này phần nào được giải mã trong hai chương sách được dịch ở đây.
Đó là Chương II và Chương III cuốn Conquest of Violence – the Gandhian Philosophy of Conflict (vượt qua bạo động – triết học về xung đột, theo Gandhi), của Joan Bondurant, do Nhà Xuất bản Đại học Princeton, Mỹ, phát hành năm 1952, bản hiệu đính năm 1988, từ trang 15 đến trang 104.
Chương II nói về những nguyên lý nền tảng của phương pháp đấu tranh vì lương tâm. Chương III nói về năm (05) chiến dịch đấu tranh vì lương tâm tiêu biểu đã diễn ra tại Ấn Độ với những thông tin xúc tích và cụ thể.
Hy vọng hai chương sách này sẽ là một tham khảo ít nhiều có ích vềphương pháp đấu tranh vượt qua bạo động, giải quyết xung đột trong ôn hòa, cho cuộc đấu tranh vì nhân quyền, sự thật và dân chủ tại Việt Nam hiện nay.
***
Để tiện theo dõi, Chương II, III sẽ được gọi là Phần I, II. Các đoạn trong Phần I cũng sẽ được đánh số thay cho số trang. Tựa đề và tiêu đề trong ngoặc vuông do người dịch đặt. Hai phần sẽ gồm những nội dung sau:
PHẦN I
ĐẤU TRANH VÌ LƯƠNG TÂM: NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN
I. Sự thật
II. Bất bạo động
III. Tự khổ
IV. Vai trò cá nhân
V. Tương quan giữa sự thật, bất bạo động và tự khổ
PHẦN II
ĐẤU TRANH VÌ LƯƠNG TÂM: TÁC ĐỘNG CHÍNH TRỊ VÀ XÃ HỘI
I. Cốt lõi khi thực hành đấu tranh vì lương tâm
1. Những nguyên tắc nền tảng
2. Nội quy
3. Những bước tiến hành một chiến dịch
II. Satyagraha (đấu tranh vì lương tâm) hay Duragraha (bất bạo động quyết liệt)?
III. Phân tích năm chiến dịch đấu tranh vì lương tâm
1. Đấu tranh đòi lại đường qua đền Vykom
Đúc kết chiến dịch Vykom
2. Đấu tranh của nông dân Bardoli chống chính quyền Bombay
Đúc kết chiến dịch Bardoli
3. Đấu tranh của công nhân Ahmedabad
Đúc kết chiến dịch Ahmedabad
4. Đấu tranh toàn quốc chống luật Rowlatt
Đúc kết chiến dịch Rowlatt
5. Đấu tranh toàn quốc chống luật muối
Đúc kết chiến dịch muối
IV. Đúc kết năm chiến dịch đấu tranh vì lương tâm
________________________
PHẦN I
ĐẤU TRANH VÌ LƯƠNG TÂM – NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN
1.
“Thưa ông Gandhi, có phải ông là tác giả của phong trào đấu tranh vì lương tâm?”
“Thưa ngài, đúng vậy.”
“Ông giải thích thêm được không, ngắn gọn thôi?”
Ngài Hunter đã mở đầu cuộc thẩm vấn Mohandas Gandhi[1] như thế. Hunter là Chủ tịch Ủy ban Điều tra đợt vận động toàn quốc đầu tiên của phong trào đấu tranh vì lương tâm tại Ấn Độ.
Và Gandhi trả lời:
“Đó là cách đấu tranh nhằm thay thế những cách đấu tranh bạo động khác, và là cuộc đấu tranh dựa hoàn toàn vào sự thật…”
2.
Là một phương pháp “nhằm thay thế những cách đấu tranh bạo động khác”, đấu tranh vì lương tâm ra đời tại Nam Phi, rồi được tiếp nối tại Ấn Độ.
Triết lý đấu tranh này tuy không phát sinh từ lý thuyết hay được trình bày trên giấy trắng mực đen, trong một văn bản có logic hay hệ thống, nhưng nền tảng tư tưởng và hành động của nó – được rút tỉa và bổ sung thông qua các cuộc đấu tranh xã hội và chính trị trên thực tế – lại hiện ra rất rõ trước mắt những ai muốn tìm hiểu, hiểu để thách thức, để áp dụng, hay cả để chống đối.
Đấu tranh vì lương tâm chỉ có vài nguyên lý cốt lõi, và mang lại hiệu quả nhiều hay ít tùy vào việc người thực hành hiểu về những điểm cốt lõi đó nhiều hay ít, đồng thời tùy thuộc vào kỹ năng áp dụng chúng trong tình huống đấu tranh cụ thể.
Nếu không hiểu những điểm cốt lõi này, hoặc không thấy chúng đã được tinh tế vận dụng vào thực tế ra sao để trở thành một quy trình đấu tranh, thì rất dễ trông gà hóa cuốc, xem những hình thức đấu tranh như đình công, tuyệt thực, biểu tình tuần hành… là phương pháp của Gandhi, dù trên thực tế đó chỉ là những hình thức đấu tranh đã cũ.
3.
Tìm hiểu ý nghĩa mà Gandhi gán cho các ý niệm như sự thật, bất bạo động và tự khổ cũng là khám phá cốt lõi tư tưởng của Gandhi. Nhưng, đế hiểu thấu đáo phương pháp đấu tranh này, cũng cần hiểu thêm về tương quan qua lại giữa sự thật, bất bạo động và tự khổ, và vai trò của cá nhân như người quyết định tối hậu trong phương pháp đấu tranh vì lương tâm.
***
I. SỰ THẬT
4.
Gandhi nói rằng “Satyagraha nghĩa là giữ lấy sự thật, và vì vậy cũng có thể gọi đó là quyền lực của sự thật [Truth-force]”.
Nhưng, Gandhi nói đến “sự thật” nào khi dùng nó như cốt lõi của một phương pháp đấu tranh? Làm thế nào để sự thật trở thành “sức mạnh” hay “quyền lực”, và nó liên quan đến hành động của con người trong đấu tranh ra sao?
Gandhi cho biết “sự thật luôn loại bỏ bạo lực, nhưng vì con người không thể biết được sự thật tuyệt đối nên không đủ tư cách để dùng bạo lực trừng phạt kẻ khác.”[2]
Tìm kiếm sự thật vốn là khát khao của con người từ bao đời. Ý niệm về cái vô cùng đã có mặt dưới nhiều hình thức, tuy những ý niệm này trong tôn giáo và triết học cũng có lúc trở thành những giáo điều gây bất ổn.
Tại Ấn Độ, truyền thống Ấn Độ giáo mở ra cho con người khả năng nhận biết cái tuyệt đối: đích đến của hành trình đời người chính là sự hợp nhất giữa con người với Thượng đế, và đó là ý nghĩa của việc con người tự hoàn thiện mình.
Gandhi, khi mô tả mục tiêu đời mình, cũng có chung hoài bão như những người Ấn Độ giáo khác, rằng mọi nỗ lực của đời ông cuối cùng chính là “được thấy Thượng đế, mặt đối mặt.”
Chiếu theo niềm tin của một tín đồ Ấn Độ giáo, Gandhi chấp nhận cái tuyệt đối, và cái nhìn của riêng ông về Thượng đế cũng là cái nhìn của một tín đồ về Đấng Brahma hiện hữu mọi nơi. Nhưng Gandhi rất hiểu rằng trí tuệ giới hạn của loài người không thể hiểu được cái nằm ngoài giới hạn.
Gandhi chưa bao giờ nghĩ mình nắm được sự thật tuyệt đối, nên ông liên tục nhắc mọi người rằng: vì không có khả năng biết được sự thật tuyệt đối, nên luôn phải có thái độ cởi mở với những người khác mình.
5.
Khi khởi xướng phong trào đấu tranh vì lương tâm, ông nhận ra rằng “cuộc tìm kiếm sự thật không cho phép dùng bạo động để trấn áp đối phương, nhưng đòi người đấu tranh phải tránh xa sai lầm bằng sự kiên nhẫn và cảm thông.” Lý do là vì “điều có vẻ đúng với người này lại có thể là sai lầm với người kia.”[3]
Để hoàn thiện bản thân, Gandhi đã biến đời mình thành “một loạt những cuộc thử nghiệm với sự thật.” Bằng cách “giữ lấy sự thật”, ông không có ý nói rằng sự thật đó phải là, hoặc có thể là, đối tượng khách quan được mọi người công nhận. Đơn giản hơn, ông nói rằng:
“… Tôi là người đi tìm sự thật. Tôi nghĩ mình tìm được con đường. Tôi nghĩ mình đang cố gắng không ngừng. Nhưng phải thú nhận tôi vẫn chưa gặp được sự thật. Gặp được sự thật toàn bích là gặp được bản thân và định mệnh đời mình, là trở nên hoàn hảo. Tôi đau đớn vì thấy mình bất toàn, nhưng từ nơi bất toàn kia tôi tìm được sức mạnh của mình, biết được giới hạn của chính mình là điều khó nhọc họa hiếm biết bao.”[4]
Và, cũng vì thế, Gandhi, người đi tìm sự thật tuyệt đối, đã chú tâm nhiều hơn đến việc tìm kiếm phương tiện, tức con đường để đến với sự thật kia.
6.
[Sự thật là Thượng đế]
Có thể thấy, sự thật được dùng trong đấu tranh vì lương tâm không phải là sự thật tuyệt đối. Khi theo đuổi những cuộc thử nghiệm với sự thật, tính chất tương đối của sự thật như một nguyên tắc hành động ngày càng rõ hơn.
Phương pháp đấu tranh vì lương tâm được phát triển vừa như một phương tiện để Gandhi giải quyết những vấn đề xã hội và chính trị thực tế, vừa là một tuyên ngôn cho những niềm tin triết học của ông. Nhận định về nguồn gốc cụm từ satyagraha – đấu tranh vì lương tâm – Gandhi viết:
“Chữ “Satya” (Sự thật) có gốc từ “Sat”, nghĩa là hiện hữu. Không có gì hiện hữu trên thực tế ngoài Sự thật. Đó cũng là lý do “Sat”, hay Sự thật, nên là tên gọi quan trọng nhất của Thượng đế. Nhưng nói “Sự thật là Thượng đế” thì đúng hơn nói “Thượng đế là Sự thật”… nhìn như thế sẽ thấy “Sat” (hiện hữu) hay “Satya” (Sự thật) là tên duy nhất đúng và phù hợp để gọi Thượng đế.”*
7.
Trong những tuyên bố trước đó, Gandhi từng gắn liền Thượng đế với sự thật. Năm 1925, khi nói chuyện với các nhà truyền giáo đạo Thiên chúa tại Darjeeling, Gandhi nói rằng, với ông “Thượng đế và Sự thật là hai từ có thể đổi chỗ cho nhau.”[v] Một năm sau, trong lần nói chuyện tại Wardha, ông nhận định: “… với tôi, Sự thật là Thượng đế. Và không có con đường nào có thể dẫn đến Sự thật ngoài con đường bất bạo động.”[vi]
Năm 1931, khi được nhóm phản chiến vì lý do đạo đức tại Thụy Sĩ hỏi vì sao ông xem Thượng đế là sự thật, Gandhi đã giải thích rằng câu nói quen thuộc “Thượng đế là Tình yêu” của người theo đạo Thiên chúa dường như không được thỏa đáng, và ông đã đi đến kết luận “Thượng đế là Sự thật”. Nhưng sau đó, ông thấy cũng cần đi thêm một bước nữa để gọi “Sự thật là Thượng đế”. Ông cho biết:
“Bạn sẽ thấy sự khác nhau tế nhị giữa hai mệnh đề “Thượng đế là Sự thật” và “Sự thật là Thượng đế.” Tôi đi đến kết luận như vậy sau 50 năm không ngừng tìm kiếm sự thật. Và tôi cũng thấy được rằng con đường gần nhất để đến với sự thật chính là tình thương.”[vii]
Sự “khác nhau tế nhị” kể trên được một số nhà phê bình cho là rất quan trọng. N. K. Bose giải thích rằng sự thay đổi này đã tháo gỡ cho người đấu tranh vì lương tâm khỏi những niềm tin thần học, hoặc ít nhất là khỏi một số tín điều thần học cụ thể nào đó:
“Khi thay đổi cách nhìn như vậy, bạn sẽ dễ dàng gần gũi với những ai chọn mục tiêu nhân bản, hay mục tiêu tương tự, làm lý tưởng để mình sẵn sàng hy sinh cả đời. Bằng cách đặt sự thật lên chỗ cao nhất trên bệ thờ, Gandhi trở thành tín đồ của một tôn giáo chung, ông không thấy có ngăn cách nào giữa mình với những tín đồ đang thờ một Thượng đế khác với Thượng đế của ông.”[viii]
Có thể nói việc Gandhi thay đổi cấu trúc mệnh đề thần học vừa kể đã giúp ông tự do hơn khi xây dựng phương pháp đấu tranh vì lương tâm. Một lần nữa, đây là ví dụ cho thấy Gandhi đã chỉ đưa ra những đúc kết triết học sau khi có những trải nghiệm thực tế, sau khi tìm cách đưa đạo đức vào đấu tranh.
Trong tự truyện, ông viết:
“Có vô số định nghĩa về Thượng đế, vì Ngài cũng có vô số cách biểu hiện. Chúng làm tôi choáng ngợp trong kính úy và ngưỡng vọng và cũng làm tôi choáng váng.
“Nhưng tôi tôn thờ Thượng đế chỉ như sự thật mà thôi. Tôi chưa thấy được Ngài, nhưng tôi luôn tìm kiếm Ngài. Tôi sẵn sàng hy sinh điều quý báu nhất của tôi để theo đuổi khát khao này… Nhưng, chừng nào tôi chưa tìm thấy sự thật tuyệt đối này, chừng đó tôi còn phải bám lấy sự thật tương đối mà tôi cảm nhận được. Sự thật tương đối vì vậy sẽ trở thành người dẫn đường cho tôi, lá chắn của thôi, trạng sư của tôi.”[ix]
8.
[Tôi chân thực, vì vậy tôi hiện hữu]
Bất kể những nhận định triết học của Gandhi còn thiếu sót đến đâu, nếu đo theo thước của triết gia, cũng dễ thấy rằng những cảm nhận của Gandhi về sự thật đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của phương pháp đấu tranh vì lương tâm.
Ông quan tâm đến những khái niệm này chỉ vì chúng ảnh hưởng đến hành vi của con người. Để giải thích quan điểm về sự thật, ông viết cho một người bạn như sau:
“Trong câu ‘Thượng đế là Sự thật’, ‘là’ không có nghĩa ‘tương đương với’, cũng không có nghĩa ‘đúng là’.
“Sự thật không đơn thuần là một thuộc tính mà Thượng đế có, vì Thượng đế ‘là’ sự thật. Thượng đế sẽ không là gì khác nếu không là sự thật.
“Sự thật trong tiếng Sankrit có nghĩa là ‘Sat’. Và ‘Sat’ cũng có nghĩa là ‘hiện hữu’. Vì vậy, trong sự thật đã có ý nghĩa ‘hiện hữu’.
“Chỉ Thượng đế hiện hữu, không có gì khác hiện hữu. Vì vậy, càng chân thực bao nhiêu, tôi lại càng gần với Thượng đế bấy nhiêu. Nói cách khác: Tôi chân thực, vì vậy tôi hiện hữu.” [x]
Cũng nên biết là những tuyên bố thi thoảng về bản thể hoặc nhận thức luận vừa kể được hình thành trong quá trình hoạt động của Gandhi để giải quyết xung đột của con người, chứ không được hình thành trong quá trình suy tư về triết học thuần lý.
Trong những thử nghiệm với sự thật thì sự thật mà Gandhi theo đuổikhông là sự thật trong bản thể luận hay nhận thức luận, mà là sự thật như một yếu tố thuộc phạm vi đạo đức xã hội.
Càng ngày ông càng chú tâm nhiều vào phương tiện hơn là mục đích. Phương tiện càng trở nên cụ thể, trong khi mục đích – con người gặp được Thượng đế, vốn cũng là sự thật – lại trở nên thứ yếu.
9.
[Tìm sự thật bằng bất bạo động & tình thương]
Năm 1924, Gandhi viết trên tờ Young India rằng: “Tôi muốn gặp Thượng đế, mặt đối mặt. Như tôi biết, Thượng đế là Sự thật. Với tôi, phương tiện duy nhất chắc chắn để hiểu Thượng đế chính là bất bạo động – ahimsa – tình thương.”[xi]
Trong quá trình tìm kiếm sự thật, Gandhi đã phát triển khái niệm về bất bạo động – phương tiện để đạt sự thật tối hậu – và điều đáng kể là khi ông làm như vậy, khái niệm về Thượng đế của ông trở nên tự do, rộng mở hơn nhiều.
Tính tương đối trong quan niệm về Thượng đế của Gandhi đã được thể hiện rõ từ khoảng năm 1919, khi Gandhi được Ủy ban Hunter chất vấn, và cuộc trao đổi đã diễn ra giữa Gandhi và đại diện Ủy ban như sau:
“Nguyên lý đấu tranh vì lương tâm của ông, như tôi được biết, có liên quan đến việc theo đuổi sự thật, và để theo đuổi sự thật, ông chấp nhận đau khổ cho bản thân và không bạo động với bất cứ ai khác, có đúng vậy không?”
Gandhi đáp: “Đúng vậy, thưa Ngài.”
“Nhưng dù con người có cố gắng thành thật đến mấy trong việc tìm kiếm sự thật, thì quan niệm về sự thật của anh ta vẫn có thể khác với quan niệm của người khác. Trong trường hợp đó, ai sẽ xác định đâu là sự thật?”
“Cá nhân đương sự sẽ quyết định đâu là sự thật.”
“Nhưng mỗi cá nhân lại có một cách nhìn khác nhau về sự thật. Điều đó sẽ dẫn tới hỗn loạn?”
“Tôi không nghĩ vậy.”
“Cố gắng và thành thật tìm kiếm sự thật cũng khác nhau tùy từng trường hợp.”
“Chính vì vậy mà bất bạo động trở thành điều kiện tối cần. Bằng không sẽ là hỗn loạn và tệ hơn nữa.”[xii]
Vai trò của bất bạo động như một nguyên lý cốt lõi của đấu tranh vì lương tâm sẽ được tìm hiểu ở phần sau. Quan niệm về sự thật của Gandhi, vốn không có tính tuyệt đối, đã thoát khỏi một khó khăn thực tế mà chủ nghĩa tương đối trong đạo đức đã gặp phải trước đây, và nó thoát khỏi khó khăn này nhờ yếu tố bất bạo động như một nguyên lý hành động cho đấu tranh vì lương tâm.
10.
[Sự thật giữa đời và trong hang tối]
Có rất nhiều chứng cớ cho thấy Gandhi đã sử dụng những chuẩn mực xã hội để đánh giá đâu là sự thật trong một hoàn cảnh nhất định. Trong cuốn History of Satyagrahashram (Lịch sử cộng đoàn Đấu tranh vì lương tâm), Gandhi viết về việc sám hối khi làm sai:
“’Việc làm sai’ là việc phải được luật lệ quy định rõ ràng, được mọi người công nhận là sai, có hại về mặt tinh thần, và người làm sai biết là sai. Không được dựa trên suy diễn mà kết tội vô căn cứ. Làm như thế có thể dẫn đến những hậu quả nguy hiểm.
“Nếu còn hoài nghi thì không được kết tội. Hơn nữa, không ai phải chịu phạt vì việc mình cho là sai dựa trên niềm tin và ý kiến riêng. Có thể điều hôm nay tôi cho là sai thì ngày mai tôi lại cho là vô hại. Vì vậy điều sai phải là điều xã hội xem là sai.
“Tôi có thể xem việc không mặc quần áo tự dệt (khadi) [để chứng tỏ đồng tình với cuộc đấu tranh] là rất sai. Nhưng bạn bè tôi có thể xem là không sai, cũng không ca tụng việc không mặc như một đức hạnh, vì vậy họ có thể lúc mặc lúc không. Nếu tôi cho rằng điều đó sai lầm và tuyệt thực chống lại thì đó không còn là đấu tranh nữa, mà là áp đặt ý chí của tôi lên người khác.
“Cũng không thể trừng phạt khi người có lỗi không biết mình đã phạm sai lầm.”**
Ở đây, Gandhi cũng đề xuất cách giải quyết vấn đề theo tinh thần khách quan. Dù công nhận rằng sự thật chỉ tương đối, một số tiêu chuẩn khách quan cũng đã được xác lập. Giải pháp nằm ở chỗ “con người là thước đo sự thật”.
Giải pháp thực tế này, đúc kết qua những “thử nghiệm với sự thật” của Gandhi, thực ra rất gần với giải pháp lý thuyết được nhà duy vật nhân bản người Đức Feuerbach đưa ra.
Feuerbach cho rằng: Những sự thật không tuyệt đối – tức không là Thượng đế, theo Gandhi – có liên quan đến nhu cầu cộng sinh của con người. Con người cá nhân tìm kiếm sự thật thông qua cộng đồng mà họ là thành viên. Gandhi cũng cho rằng: ”Khát khao sự thật không thể được thỏa mãn trong một hang hốc xa xôi nào đó.” Gandhi viết:
“Khi có điều gì không thật xảy ra trong Cộng đoàn, tôi xin được nhận lỗi về mình. Điều đó có nghĩa tôi chưa đạt đến sự thật như tôi mong muốn. Có thể do ngu dốt mà ra, nhưng rõ ràng tôi đã chưa hiểu đầy đủ sự thật, vì vậy chưa nghĩ thấu đáo hoặc nói thấu đáo về sự thật, càng chưa thực hành được sự thật.
“Nhưng với những khuyết điểm như thế, tôi có nên bỏ đi đến những hang động nào đó trong dãy Hy Mã Lạp Sơn và nhập thất tịnh khẩu hay không?
“Nếu tôi làm vậy thì đó là hèn nhát. Không thể tìm kiếm sự thật trong hang tối. Tịnh khẩu không có ý nghĩa gì vào lúc cần phải mở miệng.
“Trong hoàn cảnh nào đó, người ta vẫn có thể ở ẩn trong hang. Nhưng người bình thường chỉ có thể được thử thách giữa chợ đời mà thôi.”[xiii]
11.
[Sự thành thực & lòng chính trực]
Trong khi thiếu vắng sự thật tuyệt đối, thì Gandhi, người hành động xã hội, cũng đã thường xuyên nhấn mạnh đến tầm quan trọng của những đại diện dễ nhận biết của sự thật, đó là sự thành thật và lòng chính trực. Ông viết:
“Sự thành thật chính là chìa khóa chủ.
“Đừng nói dối trong bất cứ tình huống nào, đừng giữ điều gì làm bí mật, hãy tin cẩn những người dậy dỗ mình và các bậc trọng tuổi, và hãy bộc bạch lòng mình với họ về mọi việc.
“Đừng nghĩ xấu về bất cứ ai, đừng nói điều xấu xa về bất cứ ai sau lưng họ. Trên hết, hãy “thành thật với bản thân” để mình không thể giả dối với bất cứ ai.
“Sống thật trong từng việc đơn giản, trong từng việc nhỏ nhất là bí quyết duy nhất của đời sống trong lành.”[xiv]
Những lời khuyên giản dị này – về sự thành thật và chính trực – xuất phát từ một nhận thức thực tế về xã hội. Gandhi đã đồng nhất Sự thật với Thượng đế, và dường như vì không thực sự thoải mái trong lĩnh vực tín lý thần học nên ông đã diễn giải Thượng đế dưới dạng tương đối, thông qua rất nhiều những diễn giải cá nhân khác nhau. Và khi mâu thuẫn xảy ra, ông dựa vào luận động của những mối quan hệ giữa người với người để làm tiêu chuẩn phân định sự thật, hoặc gần với sự thật, trong một tình huống nhất định.
Điều này, tất nhiên, đưa ông trở về lĩnh vực của đạo đức. Thật vậy, cuộc đời của Gandhi là cuộc đời của người dấn thân trọn vẹn cho việc khám phá hiệu quả đạo đức của niềm tin siêu hình, và những hành động có thể xuất phát từ niềm tin đó.
Gandhi bắt đầu viết và giảng dậy về đấu tranh khi ông tìm cách mô tả, và sau đó mở rộng thêm bằng những lập luận hợp lý và dễ hiểu, những cách đấu tranh mà ông khởi đầu và theo đuổi trên sân khấu chính trị tại Nam Phi.
Nếu Sự thật là Thượng đế và Thượng đế được hiểu bởi người này thế này, người kia thế kia, thì làm thế nào để “giữ lấy sự thật” [nghĩa gốc của đấu tranh vì lương tâm]?
Đấu tranh vì lương tâm không phải là một giáo điều, cũng không bất động hoặc có thể khẳng định như đinh đóng cột. Giữ lấy sự thật là một ý niệm động và đấu tranh vì lương tâm là một phương pháp hành động.
Vậy thì làm thế nào để hiểu và để giữ lấy sự thật?
Làm thế nào để tránh hỗn độn khi việc truy tìm sự thật lại khác nhau tùy mỗi hoàn cảnh?
Câu trả lời Gandhi đưa ra nằm trong một quy tắc khác, quy tắc cho rằng sự thật không thể nào tách rời khỏi ahimsa (bất bạo động / tình thương).
(Còn tiếp)
Nguồn: Joan Bondurant, Conquest of Violence – the Gandhian Philosophy of Conflict, Nhà Xuất bản Đại học Princeton, Mỹ, phát hành năm 1952, bản hiệu đính năm 1988, từ trang 15 đến trang 104
Bản tiếng Việt © 2014 Phan Trinh & pro&contra
[1] Diễn ra ngày 9/1/1920. Để biết thêm nội dung trao đổi giữa Ngài Hunter với Gandhi, và giữa Ngài Chimanlal Setalwad với Gandhi, đọc D. G. Tendulkar, Mahatma, Vol. I, (Bombay: Jhaveri and Tendulkar, 1952) tr. 340-343.
[2] M. K. Gandhi, Speeches and Writings of Mahatma Gandhi (4th ed.; Madras: Natesan [n.d.]), tr. 508
[3] Jag Parvesh Chander, ed., Teachings of Mahatma Gandhi (Lahore: The Indian Printing Works, 1945), tr. 494.
[4] Gandhi, Young India, 17/11/1921. Xem thêm Tendulkar, sđd, Vol. II, tr. 98.
* Young India, 30/7/1931, tr. 196. Để biết thêm ghi chú về sự khác biệt giữa “hiểu biết” và “hiện hữu” trong ý niệm của Ấn Độ giáo về Sự thật, xem thêm bài “The Hindu Idea of Truth” của J. H. Muirhead, trong tập sách Mahatma Gandhi, Essays and Reflections on His Life and Work do S. Radhakrishnan hiệu đính (2nd ed.; London: Allen & Unwin [1949]), tr. 197-200.
[v] Tendulkar, sđd, Vol. II, tr. 249.
[vii] Như trên, Vol. III, tr. 176.
[viii] N. K. Bose, Studies in Gandhism (2nd Ed., Calcutta: Indian Associated Publishing Co., 1947), tr. 269.
[ix] M. K. Gandhi, An Autobiography or The Story of My Experiments with Truth, do Mahadev Desai dịch từ nguyên bản tiếng Gujarati (Ahmedabad: Navajivan, 1940), tr. 4.
[x] Trích thư gửi P. G. Mathew, 9/7/1932, dẫn trên Harijan số ra ngày 27/3/1949, tr. 28.
[xi] Ngày 3/4/1924 như trích dẫn trong Chander, sđd, tr. 266.
[xii] Tendulkar, sđd, Vol I, tr. 342. Đoạn này cũng xuất hiện trênYoung India, 1919-1922 (Madras: S. Ganesan, 1922), tr. 33-36.
** Dịch từ nguyên bản tiếng Gujarati đăng trên Harijan, số ra ngày 4/7/1948. Đoạn bằng tiếng Hindi trong Satyagraha Ashram ka Itihascủa Gandhi được Ramnarayan Chaudhuri dịch từ nguyên bản tiếng Gujurati (Ahmedabad: NXB Navajivan, [1948]), tr. 17-18.
Gandhi chấp thuận một số hình thức đấu tranh vì lương tâm nhắm vào những đối tượng được cho là không có ý thức rằng mình sai trái, nếu vấn đề được người đấu tranh cảm thấy là thực sự nghiêm trọng.
[xiii] Dịch từ nguyên bản tiếng Gujarati đăng trên Harijan, số ra ngày 18/7/1948. Đoạn bằng tiếng Hindi trong Satyagraha Ashram ka Itihascủa Gandhi được Ramnarayan Chaudhuri dịch từ nguyên bản tiếng Gujurati (Ahmedabad: Navajivan, 1948), tr. 13.
[xiv] Young India, 25/12/1925, như trích trong sách của Chander, sđd, tr. 559-560.
May 4, 2014
Đấu tranh vì lương tâm: Phương pháp của Gandhi (1)
by HR Defender • [Human Rights]
Pro&Contra | 25/02/2014
Joan V. Bondurant
Phan Trinh dịch
Giới thiệu của người dịch
Tuy âm thầm nhưng có thật, tuy quy mô nhỏ nhưng tác dụng sâu, xã hội dân sự tại Việt Nam trong thời gian qua có thể nói đang thực sự chuyển mình. Chuyển từ “0” thành “1”. Chuyển từ không thành có. Chuyển từ nhận thức, đến hoạt động hỗ trợ người trong cuộc, đến vận động dư luận rộng rãi bên ngoài. Một phương pháp hành động vì nhân quyền và sự thật dường như đang định hình. Và, lạ thay, nó rất gần với những gì Gandhi đã nghĩ và đã làm cách đây trên dưới 100 năm.
Thực vậy, gần đây đã có một số cách nhìn khác về “bạo lực” và “bạo động”:
– Khi trang mạng Bauxite Việt Nam mong muốn tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ ngưng tuyệt thực lần hai (sau lần thứ nhất gây tiếng vang), lý do chính được đưa ra là: “Lòng tin vào chính nghĩa không cho phép con người dùng bạo lực: bạo lực từ phía nhà tù…, cũng như sự tuyệt thực – nên được coi như một dạng bạo lực cuối cùng của kẻ nạn nhân của bạo lực.” (Bauxite VN, 17/10/2013)
– Trong bài “Trị căn hơn trị chứng”, nhà nghiên cứu triết học Bùi Văn Nam Sơn tin rằng: “Bất công xã hội, tự nó, là bạo động. Đặc quyền, đặc lợi là bạo động. Độc thoại trên diễn đàn thông tin đại chúng là bạo động. Ngôn ngữ mạ lỵ, thiếu tương kính là bạo động …” (Tuổi trẻ, 31/12/2013)
Gần đây, cũng bắt đầu có những hoạt động hỗ trợ thiết thực:
– Ngày 25/11/2013, Hội Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam được thành lập, ghi rõ chủ trương: “… để đại diện một cách độc lập, công bằng và vô vị lợi cho toàn thể những người phụ nữ đã, đang và sẽ bị tổn thương về Nhân quyền.”
– Ngày 6/1/2014 cuộc vận động quyên góp “Nhịp cầu Hoàng Sa” đã được các nhà báo Huy Đức, Kim Hạnh, Nguyễn Thế Thanh và bằng hữu phát động để “… làm điều gì đó thiết thực hơn cho thân nhân những người lính đã hy sinh ở Hoàng Sa và cho những người lính từ Hoàng Sa trở về sống âm thầm suốt 40 năm qua.” Sau đó, Nhịp cầu còn mở rộng để hỗ trợ gia đình những người lính chiến đấu và hy sinh tại Gạc Ma.
– Ngày 14/1/2014, chương trình “Quà Tết cho Tù nhân Lương tâm” do trang mạng Diễn đàn Xã hội Dân sự và nhóm Bầu bí Tương thân đã khởi động ở Nghệ An, để sau đó thực hiện ở Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Đà Nẵng… Dù bị cản trở, các cuộc thăm viếng vẫn diễn ra. Và lời kêu gọi khó quên này đã được tiến sĩ Nguyễn Quang A gióng lên: “1 giờ mà quý vị đến thăm họ để biết hoàn cảnh thật của họ tại gia đình họ, thì 1 giờ đó có thể giúp quý vị hiểu nhiều hơn 1 năm chỉ đọc và nghe. Hãy thường xuyên đến với họ, bày tỏ sự đoàn kết với họ và đấy là một trong những cách phá vỡ sự cô lập chết người mà một số kẻ lạm dụng quyền lực đã và đang gây ra…” (Bauxite VN, 22/1/2014)
– Ngày 18/2/2014, Hội Cựu Tù nhân Lương tâm ra đời. Ngoài mục tiêu “Đấu tranh cho một nền pháp chế biết đề cao nhân phẩm, tôn trọng nhân quyền, thăng tiến tự do, xây dựng dân chủ…”, Hội còn ghi trong Điều lệ chủ trương “Duy trì các hoạt động hỗ trợ, giúp đỡ cho các cựu tù nhân lương tâm cũng như các thân nhân gia đình của những tù nhân lương tâm còn bị giam cầm.”
Và gần đây, cũng nở rộ hoạt động quảng bá cho nhân quyền, bao gồm:
– Những cuộc dã ngoại nhân quyền, những buổi phổ biến bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân Quyền, những cuộc tiếp xúc với Đại sứ Quán các nước về nhân quyền, những chuyến đi gặp gỡ và điều trần tại các tổ chức và diễn đàn nhân quyền quốc tế, và cột mốc quan trọng là cuộc điều trần UPR ngày 5/2/2014 tại Genève của Mạng lưới Blogger Việt Nam cùng các tổ chức xã hội dân sự từ Việt Nam và hải ngoại khác.
***
Không hẹn mà gặp, những cách nhìn về bạo động như kể trên rất gần với cách nhìn của Mohandas Gandhi (được tôn kính gọi là Mahatma Gandhi); những hoạt động hỗ trợ vừa kể cũng là những hoạt động hỗ trợ mà Gandhi chủ trương; việc quảng bá cho dư luận biết về cuộc đấu tranh cũng là điều Gandhi rất chú trọng.
Tất cả đều là những thành phần không thể thiếu của phương pháp đấu tranh Satyagraha, được xem như di sản lớn nhất Gandhi để lại cho Ấn Độ và nhân loại.
Satyagraha thường được dịch là “đấu tranh bất bạo động”, nhưng ở đây, xin được dịch là đấu tranh vì lương tâm (Satyagraha nghĩa gốc là “giữ lấy sự thật”, cũng có thể hiểu là bảo vệ, là hành động, là dấn thân vì sự ngay thẳng, cái đúng, cái thật, lẽ phải, điều chính trực nằm ngay trong lương tâm mỗi người, được từng người cảm nhận).
***
Nhưng, đấu tranh vì lương tâm, ngoài yếu tố bất bạo động, nhận thức mới, các hoạt động hỗ trợ và quảng bá, vẫn còn có những nguyên lý, bước tiến hành và kỹ thuật khác. Cơ bản hơn, phương pháp này còn được xây dựng trên một nền tảng tư duy mà nhà nghiên cứu hàng đầu về Gandhi, Joan V. Bondurant, tác giả cuốnConquest of Violence được trích dịch ở đây, gọi là “Biện chứng Gandhi” (Bondurant, tr. 237).
Khác hẳn thứ biện chứng chủ trương A phải diệt B, nông dân diệt địa chủ, công nhân diệt tư bản để tiến lên chủ nghĩa xã hội…, biện chứng Gandhi tin rằng: A không diệt B để tiến bộ.
Nhưng, nếu không diệt cũ, diệt sai, diệt cộng, diệt độc tài thì có thể dựng mới, làm đúng, và xây nền dân chủ được không? Đây là câu hỏi hóc búa. Vâng, không diệt cũ thì dựng mới cách nào?
Trả lời: Với Gandhi, người đấu tranh vì lương tâm “không tìm chiến thắng một chiều, mà tìm cách mở đường cho một dàn xếp mới tốt nhất có thể. Người đấu tranh muốn thắng, nhưng không phải là thắng đối thủ, mà là thắng tình trạng xung đột bằng một hợp đề tốt nhất có thể.” (Bondurant, tr. 196)
Với Gandhi, phương tiện ra sao sẽ dẫn đến mục đích như vậy, phương tiện cũng là mục đích, gieo gì thì gặt nấy, nhân nào thì quả nấy. Điều này có thể diễn giải thành: Nếu dùng phương tiện là bạo lực nhằm tiêu diệt đối thủ thì sẽ không thể đạt mục đích dân chủ đích thực, vì dân chủ vốn là cuộc sống chung ôn hòa của những kẻ khác nhau, thậm chí bất đồng với nhau.
Gandhi cũng khuyến cáo: “Nếu không truyền lại cho thế hệ kế thừa một phương thuốc hữu hiệu để chống lại sự lạm quyền, thì ta sẽ thả lỏng cho ma lực của thù hận và ý chí trả thù mặc sức lộng hành”. Ông tin rằng: “Đấu tranh vì lương tâm là cách duy nhất … để ngăn chặn chủ nghĩa khủng bố.” (Bondurant, tr. 235)
Trong 50 năm qua, đáp án cho câu hỏi hóc búa nêu trên cũng đã lần lượt được Martin Luther King (Mỹ), Václav Havel (Tiệp Khắc), Nelson Mandela (Nam Phi) và Aung San Suu Ky (Miến Điện) tìm hiểu, thử nghiệm và áp dụng thành công. Họ đã vượt qua bạo động. Họ không cần diệt đối thủ để tiến bộ. Và hầu hết đều đã lấy cảm hứng từ phương pháp đấu tranh vì lương tâm của Gandhi.
Đấu pháp có lẽ vốn nhiều màu, từ đen ngòm, đến đỏ máu, đỏ cờ, đến xanh lục, nhung, cam, hoặc trắng như tã hài nhi, như khăn tang quả phụ, như nón lá dân oan, hoặc nâu sồng như áo nhà sư, hoặc không màu, chỉ có mùi hương hoa nhài. Lấy máu đòi máu thì máu cứ chảy, cách mạng thất bại, mạng người thì mất, như người Việt đã thấy trên quê hương Việt Nam khổ đau này.
***
Đấu tranh vì lương tâm là gì? Làm thế nào để bất tuân cá nhân – trước một luật lệ xúc phạm lương tâm và nhân phẩm – trở thành bất tuân đại chúng? Làm thế nào để bất bạo động tạo được áp lực với nhà cầm quyền? Bất bạo động có phải là chọn lựa giai đoạn khi địch mạnh ta yếu, hay là chọn lựa chiến lược duy nhất? Bạo quyền có chuyển hóa, ngồi xuống “nói chuyện phải trái” với quần chúng tay không tấc sắt được không? Vì sao bất bạo động được dùng nhiều nhưng ít được hiểu đúng hay làm đúng? Làm thế nào để hóa giải và tìm được điểm chung với đối phương?… Những câu hỏi này phần nào được giải mã trong hai chương sách được dịch ở đây.
Đó là Chương II và Chương III cuốn Conquest of Violence – the Gandhian Philosophy of Conflict (vượt qua bạo động – triết học về xung đột, theo Gandhi), của Joan Bondurant, do Nhà Xuất bản Đại học Princeton, Mỹ, phát hành năm 1952, bản hiệu đính năm 1988, từ trang 15 đến trang 104.
Chương II nói về những nguyên lý nền tảng của phương pháp đấu tranh vì lương tâm. Chương III nói về năm (05) chiến dịch đấu tranh vì lương tâm tiêu biểu đã diễn ra tại Ấn Độ với những thông tin xúc tích và cụ thể.
Hy vọng hai chương sách này sẽ là một tham khảo ít nhiều có ích vềphương pháp đấu tranh vượt qua bạo động, giải quyết xung đột trong ôn hòa, cho cuộc đấu tranh vì nhân quyền, sự thật và dân chủ tại Việt Nam hiện nay.
***
Để tiện theo dõi, Chương II, III sẽ được gọi là Phần I, II. Các đoạn trong Phần I cũng sẽ được đánh số thay cho số trang. Tựa đề và tiêu đề trong ngoặc vuông do người dịch đặt. Hai phần sẽ gồm những nội dung sau:
PHẦN I
ĐẤU TRANH VÌ LƯƠNG TÂM: NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN
I. Sự thật
II. Bất bạo động
III. Tự khổ
IV. Vai trò cá nhân
V. Tương quan giữa sự thật, bất bạo động và tự khổ
PHẦN II
ĐẤU TRANH VÌ LƯƠNG TÂM: TÁC ĐỘNG CHÍNH TRỊ VÀ XÃ HỘI
I. Cốt lõi khi thực hành đấu tranh vì lương tâm
1. Những nguyên tắc nền tảng
2. Nội quy
3. Những bước tiến hành một chiến dịch
II. Satyagraha (đấu tranh vì lương tâm) hay Duragraha (bất bạo động quyết liệt)?
III. Phân tích năm chiến dịch đấu tranh vì lương tâm
1. Đấu tranh đòi lại đường qua đền Vykom
Đúc kết chiến dịch Vykom
2. Đấu tranh của nông dân Bardoli chống chính quyền Bombay
Đúc kết chiến dịch Bardoli
3. Đấu tranh của công nhân Ahmedabad
Đúc kết chiến dịch Ahmedabad
4. Đấu tranh toàn quốc chống luật Rowlatt
Đúc kết chiến dịch Rowlatt
5. Đấu tranh toàn quốc chống luật muối
Đúc kết chiến dịch muối
IV. Đúc kết năm chiến dịch đấu tranh vì lương tâm
________________________
PHẦN I
ĐẤU TRANH VÌ LƯƠNG TÂM – NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN
1.
“Thưa ông Gandhi, có phải ông là tác giả của phong trào đấu tranh vì lương tâm?”
“Thưa ngài, đúng vậy.”
“Ông giải thích thêm được không, ngắn gọn thôi?”
Ngài Hunter đã mở đầu cuộc thẩm vấn Mohandas Gandhi[1] như thế. Hunter là Chủ tịch Ủy ban Điều tra đợt vận động toàn quốc đầu tiên của phong trào đấu tranh vì lương tâm tại Ấn Độ.
Và Gandhi trả lời:
“Đó là cách đấu tranh nhằm thay thế những cách đấu tranh bạo động khác, và là cuộc đấu tranh dựa hoàn toàn vào sự thật…”
2.
Là một phương pháp “nhằm thay thế những cách đấu tranh bạo động khác”, đấu tranh vì lương tâm ra đời tại Nam Phi, rồi được tiếp nối tại Ấn Độ.
Triết lý đấu tranh này tuy không phát sinh từ lý thuyết hay được trình bày trên giấy trắng mực đen, trong một văn bản có logic hay hệ thống, nhưng nền tảng tư tưởng và hành động của nó – được rút tỉa và bổ sung thông qua các cuộc đấu tranh xã hội và chính trị trên thực tế – lại hiện ra rất rõ trước mắt những ai muốn tìm hiểu, hiểu để thách thức, để áp dụng, hay cả để chống đối.
Đấu tranh vì lương tâm chỉ có vài nguyên lý cốt lõi, và mang lại hiệu quả nhiều hay ít tùy vào việc người thực hành hiểu về những điểm cốt lõi đó nhiều hay ít, đồng thời tùy thuộc vào kỹ năng áp dụng chúng trong tình huống đấu tranh cụ thể.
Nếu không hiểu những điểm cốt lõi này, hoặc không thấy chúng đã được tinh tế vận dụng vào thực tế ra sao để trở thành một quy trình đấu tranh, thì rất dễ trông gà hóa cuốc, xem những hình thức đấu tranh như đình công, tuyệt thực, biểu tình tuần hành… là phương pháp của Gandhi, dù trên thực tế đó chỉ là những hình thức đấu tranh đã cũ.
3.
Tìm hiểu ý nghĩa mà Gandhi gán cho các ý niệm như sự thật, bất bạo động và tự khổ cũng là khám phá cốt lõi tư tưởng của Gandhi. Nhưng, đế hiểu thấu đáo phương pháp đấu tranh này, cũng cần hiểu thêm về tương quan qua lại giữa sự thật, bất bạo động và tự khổ, và vai trò của cá nhân như người quyết định tối hậu trong phương pháp đấu tranh vì lương tâm.
***
I. SỰ THẬT
4.
Gandhi nói rằng “Satyagraha nghĩa là giữ lấy sự thật, và vì vậy cũng có thể gọi đó là quyền lực của sự thật [Truth-force]”.
Nhưng, Gandhi nói đến “sự thật” nào khi dùng nó như cốt lõi của một phương pháp đấu tranh? Làm thế nào để sự thật trở thành “sức mạnh” hay “quyền lực”, và nó liên quan đến hành động của con người trong đấu tranh ra sao?
Gandhi cho biết “sự thật luôn loại bỏ bạo lực, nhưng vì con người không thể biết được sự thật tuyệt đối nên không đủ tư cách để dùng bạo lực trừng phạt kẻ khác.”[2]
Tìm kiếm sự thật vốn là khát khao của con người từ bao đời. Ý niệm về cái vô cùng đã có mặt dưới nhiều hình thức, tuy những ý niệm này trong tôn giáo và triết học cũng có lúc trở thành những giáo điều gây bất ổn.
Tại Ấn Độ, truyền thống Ấn Độ giáo mở ra cho con người khả năng nhận biết cái tuyệt đối: đích đến của hành trình đời người chính là sự hợp nhất giữa con người với Thượng đế, và đó là ý nghĩa của việc con người tự hoàn thiện mình.
Gandhi, khi mô tả mục tiêu đời mình, cũng có chung hoài bão như những người Ấn Độ giáo khác, rằng mọi nỗ lực của đời ông cuối cùng chính là “được thấy Thượng đế, mặt đối mặt.”
Chiếu theo niềm tin của một tín đồ Ấn Độ giáo, Gandhi chấp nhận cái tuyệt đối, và cái nhìn của riêng ông về Thượng đế cũng là cái nhìn của một tín đồ về Đấng Brahma hiện hữu mọi nơi. Nhưng Gandhi rất hiểu rằng trí tuệ giới hạn của loài người không thể hiểu được cái nằm ngoài giới hạn.
Gandhi chưa bao giờ nghĩ mình nắm được sự thật tuyệt đối, nên ông liên tục nhắc mọi người rằng: vì không có khả năng biết được sự thật tuyệt đối, nên luôn phải có thái độ cởi mở với những người khác mình.
5.
Khi khởi xướng phong trào đấu tranh vì lương tâm, ông nhận ra rằng “cuộc tìm kiếm sự thật không cho phép dùng bạo động để trấn áp đối phương, nhưng đòi người đấu tranh phải tránh xa sai lầm bằng sự kiên nhẫn và cảm thông.” Lý do là vì “điều có vẻ đúng với người này lại có thể là sai lầm với người kia.”[3]
Để hoàn thiện bản thân, Gandhi đã biến đời mình thành “một loạt những cuộc thử nghiệm với sự thật.” Bằng cách “giữ lấy sự thật”, ông không có ý nói rằng sự thật đó phải là, hoặc có thể là, đối tượng khách quan được mọi người công nhận. Đơn giản hơn, ông nói rằng:
“… Tôi là người đi tìm sự thật. Tôi nghĩ mình tìm được con đường. Tôi nghĩ mình đang cố gắng không ngừng. Nhưng phải thú nhận tôi vẫn chưa gặp được sự thật. Gặp được sự thật toàn bích là gặp được bản thân và định mệnh đời mình, là trở nên hoàn hảo. Tôi đau đớn vì thấy mình bất toàn, nhưng từ nơi bất toàn kia tôi tìm được sức mạnh của mình, biết được giới hạn của chính mình là điều khó nhọc họa hiếm biết bao.”[4]
Và, cũng vì thế, Gandhi, người đi tìm sự thật tuyệt đối, đã chú tâm nhiều hơn đến việc tìm kiếm phương tiện, tức con đường để đến với sự thật kia.
6.
[Sự thật là Thượng đế]
Có thể thấy, sự thật được dùng trong đấu tranh vì lương tâm không phải là sự thật tuyệt đối. Khi theo đuổi những cuộc thử nghiệm với sự thật, tính chất tương đối của sự thật như một nguyên tắc hành động ngày càng rõ hơn.
Phương pháp đấu tranh vì lương tâm được phát triển vừa như một phương tiện để Gandhi giải quyết những vấn đề xã hội và chính trị thực tế, vừa là một tuyên ngôn cho những niềm tin triết học của ông. Nhận định về nguồn gốc cụm từ satyagraha – đấu tranh vì lương tâm – Gandhi viết:
“Chữ “Satya” (Sự thật) có gốc từ “Sat”, nghĩa là hiện hữu. Không có gì hiện hữu trên thực tế ngoài Sự thật. Đó cũng là lý do “Sat”, hay Sự thật, nên là tên gọi quan trọng nhất của Thượng đế. Nhưng nói “Sự thật là Thượng đế” thì đúng hơn nói “Thượng đế là Sự thật”… nhìn như thế sẽ thấy “Sat” (hiện hữu) hay “Satya” (Sự thật) là tên duy nhất đúng và phù hợp để gọi Thượng đế.”*
7.
Trong những tuyên bố trước đó, Gandhi từng gắn liền Thượng đế với sự thật. Năm 1925, khi nói chuyện với các nhà truyền giáo đạo Thiên chúa tại Darjeeling, Gandhi nói rằng, với ông “Thượng đế và Sự thật là hai từ có thể đổi chỗ cho nhau.”[v] Một năm sau, trong lần nói chuyện tại Wardha, ông nhận định: “… với tôi, Sự thật là Thượng đế. Và không có con đường nào có thể dẫn đến Sự thật ngoài con đường bất bạo động.”[vi]
Năm 1931, khi được nhóm phản chiến vì lý do đạo đức tại Thụy Sĩ hỏi vì sao ông xem Thượng đế là sự thật, Gandhi đã giải thích rằng câu nói quen thuộc “Thượng đế là Tình yêu” của người theo đạo Thiên chúa dường như không được thỏa đáng, và ông đã đi đến kết luận “Thượng đế là Sự thật”. Nhưng sau đó, ông thấy cũng cần đi thêm một bước nữa để gọi “Sự thật là Thượng đế”. Ông cho biết:
“Bạn sẽ thấy sự khác nhau tế nhị giữa hai mệnh đề “Thượng đế là Sự thật” và “Sự thật là Thượng đế.” Tôi đi đến kết luận như vậy sau 50 năm không ngừng tìm kiếm sự thật. Và tôi cũng thấy được rằng con đường gần nhất để đến với sự thật chính là tình thương.”[vii]
Sự “khác nhau tế nhị” kể trên được một số nhà phê bình cho là rất quan trọng. N. K. Bose giải thích rằng sự thay đổi này đã tháo gỡ cho người đấu tranh vì lương tâm khỏi những niềm tin thần học, hoặc ít nhất là khỏi một số tín điều thần học cụ thể nào đó:
“Khi thay đổi cách nhìn như vậy, bạn sẽ dễ dàng gần gũi với những ai chọn mục tiêu nhân bản, hay mục tiêu tương tự, làm lý tưởng để mình sẵn sàng hy sinh cả đời. Bằng cách đặt sự thật lên chỗ cao nhất trên bệ thờ, Gandhi trở thành tín đồ của một tôn giáo chung, ông không thấy có ngăn cách nào giữa mình với những tín đồ đang thờ một Thượng đế khác với Thượng đế của ông.”[viii]
Có thể nói việc Gandhi thay đổi cấu trúc mệnh đề thần học vừa kể đã giúp ông tự do hơn khi xây dựng phương pháp đấu tranh vì lương tâm. Một lần nữa, đây là ví dụ cho thấy Gandhi đã chỉ đưa ra những đúc kết triết học sau khi có những trải nghiệm thực tế, sau khi tìm cách đưa đạo đức vào đấu tranh.
Trong tự truyện, ông viết:
“Có vô số định nghĩa về Thượng đế, vì Ngài cũng có vô số cách biểu hiện. Chúng làm tôi choáng ngợp trong kính úy và ngưỡng vọng và cũng làm tôi choáng váng.
“Nhưng tôi tôn thờ Thượng đế chỉ như sự thật mà thôi. Tôi chưa thấy được Ngài, nhưng tôi luôn tìm kiếm Ngài. Tôi sẵn sàng hy sinh điều quý báu nhất của tôi để theo đuổi khát khao này… Nhưng, chừng nào tôi chưa tìm thấy sự thật tuyệt đối này, chừng đó tôi còn phải bám lấy sự thật tương đối mà tôi cảm nhận được. Sự thật tương đối vì vậy sẽ trở thành người dẫn đường cho tôi, lá chắn của thôi, trạng sư của tôi.”[ix]
8.
[Tôi chân thực, vì vậy tôi hiện hữu]
Bất kể những nhận định triết học của Gandhi còn thiếu sót đến đâu, nếu đo theo thước của triết gia, cũng dễ thấy rằng những cảm nhận của Gandhi về sự thật đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của phương pháp đấu tranh vì lương tâm.
Ông quan tâm đến những khái niệm này chỉ vì chúng ảnh hưởng đến hành vi của con người. Để giải thích quan điểm về sự thật, ông viết cho một người bạn như sau:
“Trong câu ‘Thượng đế là Sự thật’, ‘là’ không có nghĩa ‘tương đương với’, cũng không có nghĩa ‘đúng là’.
“Sự thật không đơn thuần là một thuộc tính mà Thượng đế có, vì Thượng đế ‘là’ sự thật. Thượng đế sẽ không là gì khác nếu không là sự thật.
“Sự thật trong tiếng Sankrit có nghĩa là ‘Sat’. Và ‘Sat’ cũng có nghĩa là ‘hiện hữu’. Vì vậy, trong sự thật đã có ý nghĩa ‘hiện hữu’.
“Chỉ Thượng đế hiện hữu, không có gì khác hiện hữu. Vì vậy, càng chân thực bao nhiêu, tôi lại càng gần với Thượng đế bấy nhiêu. Nói cách khác: Tôi chân thực, vì vậy tôi hiện hữu.” [x]
Cũng nên biết là những tuyên bố thi thoảng về bản thể hoặc nhận thức luận vừa kể được hình thành trong quá trình hoạt động của Gandhi để giải quyết xung đột của con người, chứ không được hình thành trong quá trình suy tư về triết học thuần lý.
Trong những thử nghiệm với sự thật thì sự thật mà Gandhi theo đuổikhông là sự thật trong bản thể luận hay nhận thức luận, mà là sự thật như một yếu tố thuộc phạm vi đạo đức xã hội.
Càng ngày ông càng chú tâm nhiều vào phương tiện hơn là mục đích. Phương tiện càng trở nên cụ thể, trong khi mục đích – con người gặp được Thượng đế, vốn cũng là sự thật – lại trở nên thứ yếu.
9.
[Tìm sự thật bằng bất bạo động & tình thương]
Năm 1924, Gandhi viết trên tờ Young India rằng: “Tôi muốn gặp Thượng đế, mặt đối mặt. Như tôi biết, Thượng đế là Sự thật. Với tôi, phương tiện duy nhất chắc chắn để hiểu Thượng đế chính là bất bạo động – ahimsa – tình thương.”[xi]
Trong quá trình tìm kiếm sự thật, Gandhi đã phát triển khái niệm về bất bạo động – phương tiện để đạt sự thật tối hậu – và điều đáng kể là khi ông làm như vậy, khái niệm về Thượng đế của ông trở nên tự do, rộng mở hơn nhiều.
Tính tương đối trong quan niệm về Thượng đế của Gandhi đã được thể hiện rõ từ khoảng năm 1919, khi Gandhi được Ủy ban Hunter chất vấn, và cuộc trao đổi đã diễn ra giữa Gandhi và đại diện Ủy ban như sau:
“Nguyên lý đấu tranh vì lương tâm của ông, như tôi được biết, có liên quan đến việc theo đuổi sự thật, và để theo đuổi sự thật, ông chấp nhận đau khổ cho bản thân và không bạo động với bất cứ ai khác, có đúng vậy không?”
Gandhi đáp: “Đúng vậy, thưa Ngài.”
“Nhưng dù con người có cố gắng thành thật đến mấy trong việc tìm kiếm sự thật, thì quan niệm về sự thật của anh ta vẫn có thể khác với quan niệm của người khác. Trong trường hợp đó, ai sẽ xác định đâu là sự thật?”
“Cá nhân đương sự sẽ quyết định đâu là sự thật.”
“Nhưng mỗi cá nhân lại có một cách nhìn khác nhau về sự thật. Điều đó sẽ dẫn tới hỗn loạn?”
“Tôi không nghĩ vậy.”
“Cố gắng và thành thật tìm kiếm sự thật cũng khác nhau tùy từng trường hợp.”
“Chính vì vậy mà bất bạo động trở thành điều kiện tối cần. Bằng không sẽ là hỗn loạn và tệ hơn nữa.”[xii]
Vai trò của bất bạo động như một nguyên lý cốt lõi của đấu tranh vì lương tâm sẽ được tìm hiểu ở phần sau. Quan niệm về sự thật của Gandhi, vốn không có tính tuyệt đối, đã thoát khỏi một khó khăn thực tế mà chủ nghĩa tương đối trong đạo đức đã gặp phải trước đây, và nó thoát khỏi khó khăn này nhờ yếu tố bất bạo động như một nguyên lý hành động cho đấu tranh vì lương tâm.
10.
[Sự thật giữa đời và trong hang tối]
Có rất nhiều chứng cớ cho thấy Gandhi đã sử dụng những chuẩn mực xã hội để đánh giá đâu là sự thật trong một hoàn cảnh nhất định. Trong cuốn History of Satyagrahashram (Lịch sử cộng đoàn Đấu tranh vì lương tâm), Gandhi viết về việc sám hối khi làm sai:
“’Việc làm sai’ là việc phải được luật lệ quy định rõ ràng, được mọi người công nhận là sai, có hại về mặt tinh thần, và người làm sai biết là sai. Không được dựa trên suy diễn mà kết tội vô căn cứ. Làm như thế có thể dẫn đến những hậu quả nguy hiểm.
“Nếu còn hoài nghi thì không được kết tội. Hơn nữa, không ai phải chịu phạt vì việc mình cho là sai dựa trên niềm tin và ý kiến riêng. Có thể điều hôm nay tôi cho là sai thì ngày mai tôi lại cho là vô hại. Vì vậy điều sai phải là điều xã hội xem là sai.
“Tôi có thể xem việc không mặc quần áo tự dệt (khadi) [để chứng tỏ đồng tình với cuộc đấu tranh] là rất sai. Nhưng bạn bè tôi có thể xem là không sai, cũng không ca tụng việc không mặc như một đức hạnh, vì vậy họ có thể lúc mặc lúc không. Nếu tôi cho rằng điều đó sai lầm và tuyệt thực chống lại thì đó không còn là đấu tranh nữa, mà là áp đặt ý chí của tôi lên người khác.
“Cũng không thể trừng phạt khi người có lỗi không biết mình đã phạm sai lầm.”**
Ở đây, Gandhi cũng đề xuất cách giải quyết vấn đề theo tinh thần khách quan. Dù công nhận rằng sự thật chỉ tương đối, một số tiêu chuẩn khách quan cũng đã được xác lập. Giải pháp nằm ở chỗ “con người là thước đo sự thật”.
Giải pháp thực tế này, đúc kết qua những “thử nghiệm với sự thật” của Gandhi, thực ra rất gần với giải pháp lý thuyết được nhà duy vật nhân bản người Đức Feuerbach đưa ra.
Feuerbach cho rằng: Những sự thật không tuyệt đối – tức không là Thượng đế, theo Gandhi – có liên quan đến nhu cầu cộng sinh của con người. Con người cá nhân tìm kiếm sự thật thông qua cộng đồng mà họ là thành viên. Gandhi cũng cho rằng: ”Khát khao sự thật không thể được thỏa mãn trong một hang hốc xa xôi nào đó.” Gandhi viết:
“Khi có điều gì không thật xảy ra trong Cộng đoàn, tôi xin được nhận lỗi về mình. Điều đó có nghĩa tôi chưa đạt đến sự thật như tôi mong muốn. Có thể do ngu dốt mà ra, nhưng rõ ràng tôi đã chưa hiểu đầy đủ sự thật, vì vậy chưa nghĩ thấu đáo hoặc nói thấu đáo về sự thật, càng chưa thực hành được sự thật.
“Nhưng với những khuyết điểm như thế, tôi có nên bỏ đi đến những hang động nào đó trong dãy Hy Mã Lạp Sơn và nhập thất tịnh khẩu hay không?
“Nếu tôi làm vậy thì đó là hèn nhát. Không thể tìm kiếm sự thật trong hang tối. Tịnh khẩu không có ý nghĩa gì vào lúc cần phải mở miệng.
“Trong hoàn cảnh nào đó, người ta vẫn có thể ở ẩn trong hang. Nhưng người bình thường chỉ có thể được thử thách giữa chợ đời mà thôi.”[xiii]
11.
[Sự thành thực & lòng chính trực]
Trong khi thiếu vắng sự thật tuyệt đối, thì Gandhi, người hành động xã hội, cũng đã thường xuyên nhấn mạnh đến tầm quan trọng của những đại diện dễ nhận biết của sự thật, đó là sự thành thật và lòng chính trực. Ông viết:
“Sự thành thật chính là chìa khóa chủ.
“Đừng nói dối trong bất cứ tình huống nào, đừng giữ điều gì làm bí mật, hãy tin cẩn những người dậy dỗ mình và các bậc trọng tuổi, và hãy bộc bạch lòng mình với họ về mọi việc.
“Đừng nghĩ xấu về bất cứ ai, đừng nói điều xấu xa về bất cứ ai sau lưng họ. Trên hết, hãy “thành thật với bản thân” để mình không thể giả dối với bất cứ ai.
“Sống thật trong từng việc đơn giản, trong từng việc nhỏ nhất là bí quyết duy nhất của đời sống trong lành.”[xiv]
Những lời khuyên giản dị này – về sự thành thật và chính trực – xuất phát từ một nhận thức thực tế về xã hội. Gandhi đã đồng nhất Sự thật với Thượng đế, và dường như vì không thực sự thoải mái trong lĩnh vực tín lý thần học nên ông đã diễn giải Thượng đế dưới dạng tương đối, thông qua rất nhiều những diễn giải cá nhân khác nhau. Và khi mâu thuẫn xảy ra, ông dựa vào luận động của những mối quan hệ giữa người với người để làm tiêu chuẩn phân định sự thật, hoặc gần với sự thật, trong một tình huống nhất định.
Điều này, tất nhiên, đưa ông trở về lĩnh vực của đạo đức. Thật vậy, cuộc đời của Gandhi là cuộc đời của người dấn thân trọn vẹn cho việc khám phá hiệu quả đạo đức của niềm tin siêu hình, và những hành động có thể xuất phát từ niềm tin đó.
Gandhi bắt đầu viết và giảng dậy về đấu tranh khi ông tìm cách mô tả, và sau đó mở rộng thêm bằng những lập luận hợp lý và dễ hiểu, những cách đấu tranh mà ông khởi đầu và theo đuổi trên sân khấu chính trị tại Nam Phi.
Nếu Sự thật là Thượng đế và Thượng đế được hiểu bởi người này thế này, người kia thế kia, thì làm thế nào để “giữ lấy sự thật” [nghĩa gốc của đấu tranh vì lương tâm]?
Đấu tranh vì lương tâm không phải là một giáo điều, cũng không bất động hoặc có thể khẳng định như đinh đóng cột. Giữ lấy sự thật là một ý niệm động và đấu tranh vì lương tâm là một phương pháp hành động.
Vậy thì làm thế nào để hiểu và để giữ lấy sự thật?
Làm thế nào để tránh hỗn độn khi việc truy tìm sự thật lại khác nhau tùy mỗi hoàn cảnh?
Câu trả lời Gandhi đưa ra nằm trong một quy tắc khác, quy tắc cho rằng sự thật không thể nào tách rời khỏi ahimsa (bất bạo động / tình thương).
(Còn tiếp)
Nguồn: Joan Bondurant, Conquest of Violence – the Gandhian Philosophy of Conflict, Nhà Xuất bản Đại học Princeton, Mỹ, phát hành năm 1952, bản hiệu đính năm 1988, từ trang 15 đến trang 104
Bản tiếng Việt © 2014 Phan Trinh & pro&contra
[1] Diễn ra ngày 9/1/1920. Để biết thêm nội dung trao đổi giữa Ngài Hunter với Gandhi, và giữa Ngài Chimanlal Setalwad với Gandhi, đọc D. G. Tendulkar, Mahatma, Vol. I, (Bombay: Jhaveri and Tendulkar, 1952) tr. 340-343.
[2] M. K. Gandhi, Speeches and Writings of Mahatma Gandhi (4th ed.; Madras: Natesan [n.d.]), tr. 508
[3] Jag Parvesh Chander, ed., Teachings of Mahatma Gandhi (Lahore: The Indian Printing Works, 1945), tr. 494.
[4] Gandhi, Young India, 17/11/1921. Xem thêm Tendulkar, sđd, Vol. II, tr. 98.
* Young India, 30/7/1931, tr. 196. Để biết thêm ghi chú về sự khác biệt giữa “hiểu biết” và “hiện hữu” trong ý niệm của Ấn Độ giáo về Sự thật, xem thêm bài “The Hindu Idea of Truth” của J. H. Muirhead, trong tập sách Mahatma Gandhi, Essays and Reflections on His Life and Work do S. Radhakrishnan hiệu đính (2nd ed.; London: Allen & Unwin [1949]), tr. 197-200.
[v] Tendulkar, sđd, Vol. II, tr. 249.
[vi] Như trên, tr. 312.
[vii] Như trên, Vol. III, tr. 176.
[viii] N. K. Bose, Studies in Gandhism (2nd Ed., Calcutta: Indian Associated Publishing Co., 1947), tr. 269.
[ix] M. K. Gandhi, An Autobiography or The Story of My Experiments with Truth, do Mahadev Desai dịch từ nguyên bản tiếng Gujarati (Ahmedabad: Navajivan, 1940), tr. 4.
[x] Trích thư gửi P. G. Mathew, 9/7/1932, dẫn trên Harijan số ra ngày 27/3/1949, tr. 28.
[xi] Ngày 3/4/1924 như trích dẫn trong Chander, sđd, tr. 266.
[xii] Tendulkar, sđd, Vol I, tr. 342. Đoạn này cũng xuất hiện trênYoung India, 1919-1922 (Madras: S. Ganesan, 1922), tr. 33-36.
** Dịch từ nguyên bản tiếng Gujarati đăng trên Harijan, số ra ngày 4/7/1948. Đoạn bằng tiếng Hindi trong Satyagraha Ashram ka Itihascủa Gandhi được Ramnarayan Chaudhuri dịch từ nguyên bản tiếng Gujurati (Ahmedabad: NXB Navajivan, [1948]), tr. 17-18.
Gandhi chấp thuận một số hình thức đấu tranh vì lương tâm nhắm vào những đối tượng được cho là không có ý thức rằng mình sai trái, nếu vấn đề được người đấu tranh cảm thấy là thực sự nghiêm trọng.
[xiii] Dịch từ nguyên bản tiếng Gujarati đăng trên Harijan, số ra ngày 18/7/1948. Đoạn bằng tiếng Hindi trong Satyagraha Ashram ka Itihascủa Gandhi được Ramnarayan Chaudhuri dịch từ nguyên bản tiếng Gujurati (Ahmedabad: Navajivan, 1948), tr. 13.
[xiv] Young India, 25/12/1925, như trích trong sách của Chander, sđd, tr. 559-560.