Trình tự Xét xử công minh (4) – Phần 1: Quyền con người trước phiên tòa – Chương 3: Quyền đuợc nhận tư vấn pháp lý trước phiên toà

Bản dịch của [rollinglinks]Vũ Quốc Ngữ[/rollinglinks]

(Defend the Defenders)

Nguồn: Amnesty International

trinh tu-xet-xu-cong-minh

Tất cả mọi người mất tự do hay phải đối mặt với cáo buộc tội hình sự có quyền được  trợ giúp của một luật sư để bảo vệ quyền lợi của mình và để giúp đỡ trong việc biện hộ. Nếu người đó không yêu cầu chọn cụ thể một luật sư nào đó, họ quyền đuợc có sự giúp đỡ hiệu quả của sự tư vấn luật pháp để bảo vệ công lý. Sự tư vấn này có thể là miễn phí nếu nguời này không có điều kiện trả. Nguời bị giam giữ nên đuợc quyền có tư vấn pháp lý ngay khi bị giam giữ, bao gồm cả thời gian bị thẩm vấn. Mọi cá nhân phải đuợc có thời gian và không gian đầy đủ để tiếp xúc với luật sư trong khung cảnh riêng tư.

3.1 Quyền đuợc nhận sự hỗ trợ của một luật sư trước phiên tòa

3.2 Khi nào quyền được tiếp cận với một luật sư bắt đầu?

3.3 Quyền được lựa chọn một luật sư

3.4 Quyền có một luật sư được phân công; quyền được trợ giúp pháp lý miễn phí

3.5 Quyền đuợc nhận tư vấn có thẩm quyền và hiệu quả

3.6 Quyền về thời gian và không gian để giao tiếp với luật sư

3.6.1 Quyền thông tin bảo mật với luật sư

3.7 Miễn quyền tư vấn

3.1 Quyền đuợc nhận sự hỗ trợ của luật sư truớc phiên toà

Tất cả mọi người bị bắt hoặc bị giam giữ trong vụ án hình sự hoặc không, và những nguời bị cáo buộc hình sự cho dù có bị giam giữ hay không, đều có quyền nhận sự trợ giúp về pháp lý. (Xem Chuơng20 về quyền được trợ giúp pháp lý trong phiên toà và phúc thẩm).

Quyền đuợc nhận trợ giúp pháp lý trong thời gian trước phiên toà đuợc quy định trong quy chuẩn hiệp uớc và không hiệp ước.

Mặc dù quyền đuợc nhận trợ giúp pháp lý từ luật sư trong quá trình bị giam giữ, thẩm vấn và điều tra sơ bộ không ghi trong ICCPR, Hiến chương của châu Phi và hai Công uớc của châu Mỹ và châu Âu đều yêu cầu mọi công dân có quyền đó trong một phiên toà công minh. Do đó, quyền đuợc nhận trợ giúp pháp lý được áp dụng trong thời gian truớc phiên toà.

Quyền được nhận hỗ trợ pháp lý của một luật sư ngay lập tức trước phiên toà cho phép một cá nhân bị nghi ngờ hoặc bị cáo buộc tội hình sự bảo vệ mình và bắt đầu chuẩn bị tự vệ.

Đối với người bị tạm giam hỗ trợ này là rất quan trọng để họ có thể thách thức việc bị giam giữ và là một biện pháp giúp họ chống lại việc bị tra tấn hay ngược đãi khác nhằm buộc họ phải thú tội, bị thủ tiêu hoặc các điều vi phạm nhân quyền khác.

Quyền tư vấn pháp lý trước khi xét xử bao gồm các quyền :

– Tiếp cận với một luật sư,

– Thời gian để tham khảo ý kiến ​​luật sư trong bí mật,

– Có mặt luật sư trong quá trình thẩm vấn và có thể tham khảo ý kiến ​​họ trong quá trình thẩm vấn.

Đối với những người không lựa chọn luật sư, một luật sư được cử ra để thay mặt họ, bảo vệ miễn phí nếu họ không có khả năng chi trả.

Các nhà chức trách phải đảm bảo rằng các luật sư có thể tư vấn và đại diện cho khách hàng của họ theo tiêu chuẩn chuyên nghiệp, không bị hăm dọa, cản trở, sách nhiễu, hoặc can thiệp không đúng cách từ bất kỳ ai hay tổ chức nào.

Các cá nhân cần phải đuợc khắc phục một cách có hiệu quả nếu các quan chức coi thường, làm chậm trễ hoặc từ chối việc nhận trợ giúp pháplý. Toà án Châu Âu cho rằng việc cố tình từ chối và từ chối một cách có hệ thống quyền đuợc nhận trợ giúp tư pháp, đặc biệt khi người bị giam giữ ở nước ngoài, là một sự từ chối quyền được xét xử ở một phiên toàn công bằng.

(Xem Chương 20- Quyền tự bảo vệ của một nguời, và quyền được bảo vệ thông qua trợ giúp pháp lý).

3.2 Khi nào thì có quyền nhận trợ giúp pháp lý?

Tất cả những người bị tình nghi và bị cáo buộc, dù có bị giam giữ hay không, đều có quyền nhận trợ giúp pháp lý ngay từ khi việc điều tra vụ án được bắt đầu. Người bị bắt hay bị giam giữ có quyền tiếp cận luật sư ngay khi họ bị tước quyền tự do. Họ cần phải có sự hỗ trợ của tư vấn trong quá trình thẩm vấn bởi cảnh sát và thẩm phán điều tra, ngay cả khi họ thực hiện quyền giữ im lặng.

Ủy ban chống tra tấn tăng mối quan ngại về việc theo Bộ luật tố tụng hình sự của Campuchia, nguời bị bắt, bị giam giữ có quyền tiếp nhận trợ giúp pháp lý sau 24 giờ kể từ khi họ bị mất tự do.

Tòa án liên Mỹ đã tuyên bố rằng một nghi can hoặc bị cáo phải có quyền nhận trợ giúp pháp lý từ thời điểm khi một cuộc điều tra liên quan đến họ được bắt đầu, và cụ thể là khi bị cáo khai.

Tòa án châu Âu cho rằng, như một quy luật chung, quyền được xét xử công bằng đòi hỏi bị cáo được phép nhận trợ giúp pháp lý ngay sau khi họ bị giam giữ, kể cả trong giai đoạn điều tra ban đầu của cảnh sát. Toà cũng phán quyết rằng một nghi can cần phải có quyền nhận tư vấn pháp lý từ một luật sư trong các câu hỏi đầu tiên của cảnh sát, trừ khi có những lý do thuyết phục trong một trường hợp cụ thể. Toà cảnh báo rằng các quyền tự bảo vệ của công dân bị vi phạm nếu những lời khai của nguời bị bắt trong quá trình thẩm vấn của cảnh sát mà không có sự hiện diện của luật sư, đuợc dùng làm bằng chứng kết tội. Nguời dân cũng cần phải có sự hỗ trợ pháp lý trong quá trình thẩm vấn bởi thẩm phán. Tòa án châu Âu cho rằng một đạo luật cấm tiếp nhận tư vấn pháp lý trong quá trình bị cảnh sát giam giữ, là vi phạm Công ước châu Âu, mặc dù các bị cáo, người bị tình nghi là thành viên của một tổ chức vũ trang bất hợp pháp (Hezbollah ), vẫn im lặng trong quá trình thẩm vấn của cảnh sát.

Ủy ban châu Âu về ngăn ngừa tra tấn đã nêu rõ là quyền được tiếp cận tư vấn pháp lý nên áp dụng trước khi một người bị chính thức tuyên bố là nghi can, bao gồm ngay cả khi họ bị gọi lên đồn cảnh sát để làm nhân chứng hay là nói chuyện. Uỷ ban này khuyến nghị rằng những người được gọi để thẩm vấn như nhân chứng, người có nghĩa vụ hợp pháp tham dự và ở lại, cũng cần phải có quyền được trợ giúp pháp lý.

Tòa án Hình sự Quốc tế đã phán quyết rằng lời khai của bị cáo trong quá trình thẩm vấn ban đầu của nhà chức trách mà không có sự hiện diện của luật sư, khi nguời này không đuợc thông báo rõ ràng về lý do bị bắt giữ, thì không đuợc chấp nhận làm bằng chứng trước toà.

Ngay cả những tiêu chuẩn quốc tế cho phép sự chậm chễ trong việ thực hiện quyền nhận trợ giúp pháp lý, cũng nói rõ rằng việc chậm trễ này chỉ đuợc chấp nhận trong những trường hợp đặc biệt. Những trường hợp đặc biệt này phải được quy định bởi pháp luật và hạn chế  trong những hoạt cảnh khi nó được coi là không thể thiếu trong các trường hợp cụ thể, để duy trì an ninh và trật tự. Quyết định này cần được thực hiện bởi một cơ quan tư pháp hoặc cơ quan khác có thẩm quyền. Tuy nhiên, ngay cả trong những trường hợp này, quyền đuợc nhận trợ giúp pháp lý nên bắt đầu không muộn hơn 48 giờ kể từ thời điểm bị bắt hoặc giam giữ.

Báo cáo viên đặc biệt về tra tấn đã khuyến cáo rằng bất cứ ai  bị bắt giữ “nên được nhận trợ giúp pháp lý không quá 24 giờ sau khi bị bắt”.

Với mục tiêu giảm thiểu các ảnh huởng xấu của sự chậm trễ đã đuợc sự đồng ý của thẩm phán trong việc thực hiện quyền gặp luật sư trong sự lựa chọn của người bị bắt/giam giữ, với lý do an ninh, báo cáo viên đặc biệt về tra tấn và Ủy ban châu Âu về ngăn ngừa tra tấn đã khuyến cáo rằng, trong những trường hợp đặc biệt đó, người bị tình nghi nên được tiếp cận một luật sư độc lập, ví dụ từ một danh sách đã đuợc chấp thuận trước, để thay thế cho việc trì hoãn tiếp cận với luật sư mà nguời bị bắt lựa chọn.

Bất kỳ sự chậm trễ trong việc tiếp cận với luật sư phải được xác định và chứng minh trên cơ sở từng trường hợp cụ thể.Không nên có sự chậm trễ một cách có hệ thống trong việc tiếp cận với luật sư trong một số cáo buộc, cho dù là nghiêm trọng hay không, bao gồm cả luật chống khủng bố. Người bị tình nghi thực hiện hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, có thể có nguy cơ cao bị tra tấn hay ngược đãi khác, và là những nguời cần luật sư nhất. (Xem Chương 9, Quyền và biện pháp bảo vệ trong quá trình thẩm vấn)

Nhiều tổ chức có mối quan ngại về những luật và thực tế làm chậm trễ việc thực hiện quyền nhận trợ giúp pháp lý trong những vụ việc liên quan đến khủng bố. Ví dụ, Uỷ ban chống tra tấn quan ngại về việc quyền tiếp cận luật sư bị từ chối trong 24 giờ đầu theo quy định của luật chống khủng bố của Thổ Nhĩ Kỳ. Uỷ ban Nhân quyền khuyến nghị rằng “mỗi nguời bị bắt hoặc giam giữ bởi các cáo buộc hình sự, bao gồm những nghi can khủng bố, đều có quyền tiếp cận luật sư ngay”.

Trong trường hợp một cá nhân bị bắt giữ theo luật chống khủng bố ở Bắc Ireland yêu cầu gặp luật sư khi đến một đồn cảnh sát, nhưng các nhà chức trách không cho nguời này tiếp cận luật sư trong vòng 48 giờ và liên tục thẩm vấn nguời bị bắt trong khoảng thời gian đó, thì Tòa án châu Âu cho rằng quyền của nguời đó đã bị vi phạm.

Mọi cá nhân cũng có quyền nhận trợ giúp pháp lý khi bị đưa ra truớc thẩm phán để thẩm phán này quyết định có giam giữ nữa hay không. (xem Chương 5 phần 2).

Nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư

Nguyên tắc 1

“Tất cả mọi người có quyền tiếp nhận sự trợ giúp pháp lý từ một luật sư mà họ lựa chọn để bảo vệ và thiết lập các quyền của mình và để bảo vệ họ trong tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự”.

Nguyên tắc 17

“Một người bị giam giữ có quyền có sự giúp đỡ của một luật sư. Người bị giam giữ phải được thông báo về quyền của mình bởi cấp có thẩm quyền ngay sau khi bị bắt và phải được cung cấp các điều kiện cho việc thực hiện quyền này.

3.3 Quyền đuợc chọn luật sư

Quyền được chọn một luật sư, bao gồm cả trước khi xét xử, có nghĩa là một người có quyền nhận trợ giúp pháp lý theo sự lựa chọn của nguời ấy. Tiêu chuẩn quốc tế quy định quyền đuợc nhận trợ giúp pháp lý từ một luật sư đuợc lựa chọn trước phiên toà. Như đã nói ở Chuơng 3 phần 1, những tiêu chuẩn khác về quyền nhận hỗ trợ tư pháp cũng được áp dụng trong giai đoạn truớc xét xử. (Xem Chương 20 phần 3 mục 1- Quyền được lựa chọn luật sư, và Chương 28 phần 6 mục 1 về quyền nhận trợ giúp pháp lý trong các trường hợp bị kết án tử hình).

Tuy nhiên, nếu toà chỉ định luật sư, thì đương sự không có quyền lựa chọn luật sư đại diện cho mình.

3.4 Quyền có luật sư, quyền được nhận trợ giúp pháp lý miễn phí.

Nếu một người bị bắt, bị buộc tội hoặc bị giam giữ không có trợ giúp pháp lý với sự lựa chọn của họ, họ được quyền có luật sư được chỉ định bất cứ khi nào lợi ích của công lý đòi hỏi nó. Nếu người này không thể có khả năng trả tiền, luật sư được chỉ định phải cung cấp tư vấn miễn phí. Những tiêu chuẩn được trích dẫn ở đây áp dụng trong giai đoạn trước khi xét xử, và được thêm vào các tiêu chuẩn áp dụng trong tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự (xem Chương 20).

Quyền trợ giúp pháp lý cho những người không có đủ nguồn tài chính được áp dụng ở tất cả các giai đoạn dưới Điều 13 của Hiến chương Ả Rập, kể cả trong trường hợp khẩn cấp. Quyền này cũng được đảm bảo theo luật nhân đạo quốc tế, áp dụng trong thời gian có xung đột vũ trang . (Xem Chương 31 trường hợp khẩn cấp, và Chương 32 về quyền xét ​​xử công bằng trong thời gian xung đột vũ trang.)

Việc xác định lợi ích của công lý đòi hỏi phải chỉ định luật sư phụ thuộc chủ yếu vào mức độ vi phạm, sự phức tạp của vụ việc và mức độ tàn khốc của hình phạt có thể. Nó cũng có thể phụ thuộc vào tình trạng của đương sự, chẳng hạn như liên quan đến tuổi tác, sức khỏe hoặc khuyết tật.

Ủy ban chống tra tấn đã bày tỏ lo ngại rằng các luật sư chỉ được chỉ định trong trường hợp trọng tội ở Nhật Bản và một đạo luật Thổ Nhĩ Kỳ từ chối quyền nhận trợ giúp pháp lý trong những trường hợp nghi phạm có khả năng bị kết án dưới 5 năm tù.

Chính phủ phải cung cấp đủ nguồn lực để đảm bảo rằng tư vấn pháp lý có sẵn trong cả nước, bao gồm cả những người không có khả năng chi trả, cũng như cho người dân thuộc thẩm quyền của nhà nước ở nơi khác. Hệ thống trợ giúp pháp lý phải được tổ chức để cung cấp hỗ trợ tư pháp miễn phí ngay cho các cá nhân không thể trả. Nếu có một sự kiểm tra tài chính được áp dụng, trợ giúp pháp lý sơ bộ sẽ được cấp cho cá nhân cần trợ giúp pháp lý trong khi chờ đợi kết quả của việc kiểm tra (Xem Chương 20 phần 3 mục 2 về quyền nhận trợ giúp từ luật sư chỉ định.)

Hiệu quả đảm bảo quyền được xét xử công bằng và tư vấn, không phân biệt, cũng yêu cầu trong giai đoạn trước khi xét xử chính phủ chỉ định thông dịch viên miễn phí cho những người không hiểu hay không nói được ngôn ngữ sử dụng bởi quốc gia đó. (Xem Chương 2 phần 4, Chương 8 phần ba mục hai, Chương 9 phần 6 và 23 về quyền được phiên dịch)

3.5 Quyền được tư vấn pháp lý

Bất kỳ người nào bị bắt, bị giam giữ, bị buộc tội hình sự có quyền nhận được trợ giúp pháp lý của một luật sư kinh nghiệm và năng lực tương xứng với tính chất của hành vi phạm tội .

Luật sư bảo vệ , bao gồm cả luật sư chỉ định, phải hành động một cách tự do va theo quy định của pháp luật và các tiêu chuẩn và đạo đức của nghề luật sư. Họ phải tư vấn cho khách hàng về quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ, và về hệ thống pháp luật. Họ phải hỗ trợ khách hàng của họ bằng mọi cách thích hợp, hành động cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích của khách hàng. Để bảo vệ quyền lợi của khách hàng và thúc đẩy công lý, luật sư phải tìm cách bảo vệ quyền con người được công nhận bởi luật pháp quốc gia và quốc tế.

Các cơ quan, đặc biệt là các tòa án, phải đảm bảo việc tư vấn pháp lý, đặc biệt tư vấn pháp lý chỉ định, cho người bị tình nghi và người bị cáo buộc, là hiệu quả. (Xem Chương 20 phần 5- Quyền được nhận hỗ trợ pháp lý một cách hiệu quả và chất lượng, và phần 6- Nghiêm cấm quấy rối và đe dọa của luật sư. )

Nguyên tắc 17

” Nếu một người bị bắt giữ không có một cố vấn pháp lý như lựa chọn, người này có quyền có một luật sư được chỉ định bởi cơ quan tư pháp hoặc cơ quan khác để việc bảo vệ công lý được thực thi và hỗ trợ tư pháp này là miễn phí nếu người này không có khả năng chi trả.

Nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư , nguyên tắc

“ Bất kỳ người nào (bị bắt, bị giam giữ hoặc bị cáo buộc) mà không có luật sư, thì để công lý được thực thi, người này cần được trợ giúp pháp lý bởi một luật sư có kinh nghiệm và năng tương xứng với tính chất của các cáo buộc hành vi phạm tội được giao để cung cấp trợ giúp pháp lý có hiệu quả, và trọ giúp pháp lý này miễn phí nếu người bị bắt/bị giam giữ/bị cáo buộc không có khả năng chi trả”.

3.6 Quyền về thời gian và không gian để tiếp xúc với luật sư

Các quyền của cá nhân bị buộc tội hình sự về thời gian và không gian để chuẩn bị bảo vệ (xem Chương 8) và tự bảo vệ yêu cầu người bị tình nghi và người bị cáo buộc được trao cơ hộ tiếp xúc với luật sư trong bí mật. Quyền này được áp dụng trong tất cả các giai đoạn, đặc biệt cho những người bị giam giữ trước phiên tòa.

3.6.1 Quyền được tiếp xúc bí mật với luật sư

Nhà chức trách phải tôn trọng sự bí mật của việc tiếp xúc, tham vấn giữa luật sư và khách hàng.

Quyền thông tin liên lạc bí mật với một luật sư áp dụng cho tất cả mọi người, kể cả những bị bắt giam về tội hình sự.

Các chính phủ phải đảm bảo rằng người bị giam giữ có thể tham khảo và giao tiếp với luật sư mà không gây chậm trễ, ngăn chặn hoặc kiểm duyệt.

Cuối cùng, các đồn cảnh sát và những nơi giam giữ, bao gồm cả ở vùng nông thôn , phải cung cấp cơ sở vật chất đầy đủ cho các cá nhân bị bắt và bị giam giữ để gặp gỡ và giao tiếp riêng tư với các luật sư của họ (bao gồm cả qua điện thoại ). Cơ sở này phải được tổ chức để đảm bảo tính bảo mật của thông tin liên lạc bằng miệng và bằng văn bản giữa các cá nhân và luật sư của họ.

Người bị tạm giam nên có quyền giữ tài liệu liên quan đến trường hợp của họ.

Tòa án châu Âu ra phán quyết rằng các quyền bảo vệ đã bị vi phạm trong trường hợp các cơ sở trong một trung tâm tạm giam yêu cầu người bị giam giữ nói chuyện với luật sư của mình thông qua hai tấm kính với các lỗ được bao phủ bởi lưới và không cho phép trao đổi tài liệu. Những rào cản này, theo Tòa, tạo ra những trở ngại trong việc đảm bảo tính bảo mật trong giao tiếp giữa người bị giam giữ và luật sư.

ICCPR , Điều 14

“Trong việc xác định bất kỳ tội hình sự bị cáo buộc, tất cả mọi người được hưởng những bảo đảm tối thiểu sau :

Có đủ thời gian và phương tiện để chuẩn bị sự biện hộ và giao tiếp với luật sư do mình lựa chọn.

Nguyên tắc 18 (1)

“Một người bị bắt giữ hoặc bị giam giữ được giao tiếp và tham khảo ý kiến ​​pháp lý với luật sư của mình.

Pháp luật và thực tiễn cho phép cảnh sát hoặc những người khác theo dõi nội dung trao đổi giữa các nghi can và luật sư của họ không phù hợp với quyền được bào chữa.

Ủy ban Nhân quyền bày tỏ quan ngại rằng ở Ba Lan công tố viên được phép có mặt tại buổi gặp giữa nghi phạm và luật sư của họ và giấy tờ trao đổi giữa luật sư và nghi phạm có thể bị kiểm tra theo lệnh của công tố viên.

Báo cáo viên đặc biệt về quyền con người và chống khủng bố đã bày tỏ lo ngại rằng những người buộc tội có liên quan đến khủng bố ở Ai Cập không được phép giao tiếp riêng với luật sư của họ trước khi hoặc thậm chí trong phiên tòa.

Để đảm bảo bí mật, nhưng để bảo đảm an ninh, tiêu chuẩn quốc tế quy định việc tham vấn được diễn ra trong tầm nhìn nhưng không phải trong tầm nghe của nhân viên thực thi pháp luật.

Tòa án châu Âu cũng quy địn trong những trường hợp đặc biệt, tính bảo mật của tư vấn pháp lý có thể bị hạn chế. Tuy nhiên, những hạn chế này phải được quy định trong luật và theo yêu cầu của thẩm phán. Những hạn chế này phải tương ứng với một mục đích chính đáng

– Chẳng hạn như để ngăn chặn việc giết hoặc gây tổn thương cho người tình nghi, do đó, phải có biện pháp bảo vệ thích hợp chống lại sự lạm dụng (xem chương 20 phần 4). Các tiêu chuẩn không hiệp ước của Hội đồng châu Âu, bao gồm các quy tắc nhà tù châu Âu, đưa ra quy tắc này.

Nội dung trao đổi giữa một người bị bắt giữ hoặc bị bỏ tù và luật sư không được sử dụng làm bằng chứng chống lại họ, trừ khi chúng liên quan đến vụ án đang xảy ra hoặc sẽ xảy ra. (Xem Chương 17 phần 3 về loại trừ bằng chứng).

3.7 Từ bỏ quyền tư vấn

Phù hợp với quyền đại diện chính mình tại phiên tòa, những người bị cáo buộc có quyền từ chối sự hỗ trợ pháp lý trong quá trình thẩm vấn và trong giai đoạn trước phiên tòa, và tự mình đại diện.

Quyết định của một người từ bỏ quyền trợ giúp pháp lý, bao gồm cả trong quá trình thẩm vấn, phải được thiết lập một cách rõ ràng và kèm theo biện pháp bảo vệ thích hợp. Ví dụ, ICC yêu cầu việc từ chối trợ giúp pháp lý trong quá trình thẩm vấn phải được ghi lại bằng văn bản, trong trường hợp có thể, ghi âm hoặc quay video. Việc ghi lại này cần chứng minh người từ chối nhận thức đầy đủ về những hậu quả của việc từ chối.

Ủy ban chống tra tấn bày tỏ lo ngại về các báo cáo mà những người bị giam giữ bởi cảnh sát ở Azerbaijan đã bị buộc phải từ bỏ quyền được tư vấn pháp lý.

Một người đã khước từ quyền có luật sư có quyền thu hồi lại quyết định từ bỏ này.

Quyền tự đại diện, bao gồm cả trong thủ tục tố tụng trước khi xét xử, có thể bị hạn chế, vì lợi ích của công lý. (Xem Chương 20 phần 2- hạn chế về quyền đại diện cho chính mình).

Nguyên tắc cơ bản về vai trò của Luật sư, Nguyên tắc 8

“Tất cả người bị bắt, bị giam giữ hay bỏ tù có quyền được cung cấp thời gian và cơ sở vật chất để giao tiếp và tham khảo ý kiến ​​một luật sư mà không bị gây chậm trễ hoặc bị kiểm duyệt và được bảo mật. Quá trình tham vấn như vậy có thể trong tầm nhìn , nhưng không phải trong tầm nghe của nhan viên thực thi pháp luật”.